Aleksandr Solzenitsyne
Phần 1
Vào năm giờ sáng, như thường lệ, hiệu lệnh báo thức vang lên - tiếng búa đánh vào thanh tà vẹt treo cạnh sở chỉ huy. Tiếng kẻng rè ngắt quãng, yếu ớt vọng qua lớp kính băng đóng dầy đến hai đốt ngón tay, chẳng bao lâu đã im bặt: trời rét nên viên giám thị cũng chẳng buồn vung tay lâu làm gì.
Tiếng kẻng đã tắt, nhưng ngoài cửa sổ trời vẫn tối đen, y như lúc nửa đêm khi Sukhov dậy đi vệ sinh. Chỉ có ánh sáng của ba ngọn đèn vàng hắt vào cửa sổ: hai chiếc ở vùng ngoại biên, một chiếc soi khu vực bên trong trại giam.
Không hiểu tại sao chưa có ai tới mở cửa trại xá(1), và cũng không nghe thấy tiếng đám trực nhật kéo thùng vệ sinh để luồn đòn vào khiêng đi.
Sukhov không bao giờ ngủ quá lệnh báo thức, lúc nào anh cũng dậy đúng vào thời gian này, và như vậy, trước lúc điểm danh, anh có hẳn một tiếng rưỡi cho bản thân. Đây không phải là thời gian của công, mà là thời gian cá nhân. Những người từng trải cuộc sống trại giam, bao giờ cũng kiếm được chút gì đó vào quãng giờ này: có thể khâu thuê cho ai đó đôi găng tay từ miếng vải lót áo cũ; có thể mang đôi ủng dạ đã được sấy khô tới thẳng giường cho tay đội trưởng giàu có để hắn khỏi phải đi chân trần lục lọi trong đống ủng tìm đôi của mình; hay chạy tới các phòng kho xem có ai cần quét dọn, hoặc khuân vác gì không; hay tới nhà ăn thu dọn bát đĩa trên các bàn, khuân từng chồng tới chỗ rửa - làm việc này tuy cũng có thêm được đôi ba miếng ăn, nhưng ở đó có vô thiên lủng kẻ tới kiếm chác. Tuy nhiên, điều tệ hại nhất là nhìn thấy chút cơm thừa canh cặn trong bát, không đừng được, lại thè lưỡi ra mà liếm.
Sukhov nhớ rất kỹ lời của tay đội trưởng đầu tiên tên là Kuzmin - một sói già trong trại giam mà ngay từ hồi 1943 thâm niên tù đã có tới 13 năm. Trên một chỗ đất trống trong rừng, cạnh đống lửa, hắn nói với đám người vừa bị đưa thẳng từ mặt trận tới:
- Các cậu, ở đây là luật rừng. Nhưng kể cả ở đây người ta vẫn sống được. Đi tong trước tiên là những thằng liếm bát, tin vào trạm xá hay làm ăng ten cho bọn cai ngục.
Về bọn chỉ điểm, tất nhiên anh ta nói đúng. Đám ấy cũng biết giữ thân lắm, song lại giữ thân bằng tính mạng người khác.
Sukhov bao giờ cũng dậy theo kẻng báo thức, nhưng hôm nay anh vẫn nằm ì trên giường.
Từ chiều hôm trước anh cảm thấy khó chịu trong người, chẳng ra sốt rét, chẳng ra nhức xương. Cả đêm người lúc nào cũng lạnh cóng, không sao ấm lên được. Chập chờn nửa thức nửa ngủ anh cảm thấy lúc thì ốm hẳn hoi, lúc lại thấy đơ đỡ, và thấy sợ trời sáng.
Nhưng buổi sáng vẫn cứ tới như thường lệ.
Với lại ấm thế quái nào được khi lớp băng tuyết chất đống trên cửa sổ như thế kia, còn trên tường của trại xá - một cái trại xá khốn nạn, dăng khắp những chỗ tiếp nối với trần là những màng băng mỏng trông như mạng nhện.
Sukhov không dậy, anh nằm trên giường tầng trên cùng, chăn và áo buslat(2) đắp trùm đầu, còn hai chân nhét vào một ống tay của chiếc áo bông. Anh không nhìn, song qua tiếng động cũng biết hết những gì đang diễn ra trong trại xá và trong cái góc của đội anh. Ngoài hành lang là tiếng bọn trực đang huỳnh huỵch khiêng một trong tám thùng vệ sinh. Người ta cho đây là công việc nhẹ nhàng, dành cho bọn người tàn tật, nhưng cứ thử nhấc lên xem, chẳng phải trò đùa! ở đội 75 người ta đang vất xuống sàn một xâu ủng dạ vừa lấy từ chỗ sấy về.
Còn đây là tiếng đội mình (đội mình hôm nay cũng đến phiên sấy ủng). Đội trưởng và đội phó đội anh đang im lặng đi ủng, giường của họ kêu cót két. Tay đội phó chắc bây giờ phải tới chỗ chia khẩu phần bánh mì, còn đội trưởng phải lên phòng chỉ huy nhận công việc cho đội trong ngày.
Anh ta cũng chẳng dễ gì khi hàng ngày phải đối mặt với mấy ông chỉ huy trại.
Sukhov chợt nhớ ra: hôm nay số phận sẽ được định đoạt - người ta đang muốn đẩy đội 104 của anh ra khỏi chỗ xây dựng xưởng thợ sang một công trình mới mang tên “Sotsbytgorogok” - “Làng xã hội chủ nghĩa kiểu mẫu” (LXHCNKM). Cái LXHCNKM này hiện đang còn là một chỗ đất hoang phủ đầy tuyết mà muốn làm được cái gì trên đó thì trước tiên mình phải đào hố, chôn cọc, dăng hàng rào giây thép gai để tự rào mình lại, để mình khỏi trốn. Sau đó mới xây dựng.
Ở đó chắc chắn trong một tháng sẽ chẳng có lấy một chỗ để mà sưởi - chẳng có lấy một cái lều rách nào để mà chui vào. Không có củi - lấy gì mà đốt? Chỉ còn biết dựa vào chính mình thôi, và đó cũng cách duy nhất để tự cứu mình.
Đội trưởng lo lắng tìm phương kế đùn việc này cho một đội nào đó khù khờ hơn. Tất nhiên, đi tay không thì đừng hòng mà được việc. Cũng phải có nửa cân mỡ muối lót tay cho trại trưởng, có khi phải cả cân cũng nên.
Hay hôm nay mình tới trạm xá xin cái giấy phép nghỉ một ngày? Người ngợm làm sao cứ bải hoải bài hoài. Thì cứ thử, cũng chẳng mất gì.
Còn nữa, hôm nay cha giám thị nào trực nhỉ? Anh nhớ ra, hôm nay đến phiên Nửa Ivan, một tay trung sỹ gầy nhom, dài đuồn đuỗn, mắt đen. Thọat nhìn hắn ai cũng hãi, nhưng khi đã biết hắn rồi, thì đây là người dễ dãi nhất trong đám giám thị trực - anh ta chẳng bao giờ nhốt ai vào xà lim, hay lôi ai tới thủ trưởng quản chế. Thế là mình có thể nằm cho tới lúc đội 9 tới nhà ăn.
Chiếc giường tầng bên cạnh rung lên và chao đảo vì cả hai người cùng dậy một lúc - tầng trên là láng giềng Sukhov - anh chàng Aliosa theo đạo Báp-tít*(Tẩy lễ), còn tầng dưới là Buinovski, trước là trung tá hải quân.
Những người tù già khiêng thùng vệ sinh đang cãi lộn, đùn đẩy nhau đi lấy nước sôi. Họ chửi bới ầm ĩ như mấy mụ đàn bà. Tay thợ hàn điện ở tổ 20 rống lên:
- Ê, mấy lão bấc thối, có im đi không! - và ném chiếc ủng về phía họ. Chiếc ủng bay đánh vèo, đập vào cột. Những người khênh thùng im bặt.
Ở đội bên, tay đội phó lẩm bẩm than phiền:
- Này Vasil Fedorych, bọn ở phòng cấp lương đểu quá, mọi khi mình vẫn được bốn chiếc bánh mì chín lạng, hôm nay chúng thiến mất một, còn có ba. Ai là người chịu đói đây?
Anh ta nói thầm, nhưng tất nhiên cả đội đều nghe thấy và ai cũng lo: kẻ nào sẽ bị truất khẩu phần chiều nay đây?
Sukhov vẫn nằm dài trên chiếc đệm nhồi cứng mạt cưa. Cứ sốt rét mẹ nó cho xong, chứ đừng có nhức mỏi nửa chừng, nửa đoạn như thế này, chẳng còn biết ra làm sao nữa.
Trong lúc anh chàng Báp - tít lẩm nhẩm cầu kinh, Buinovski chạy vọt vào phòng, lớn tiếng tuyên bố không cho riêng ai, nhưng vui mừng một cách độc địa:
- Nào, các chiến sỹ hải quân đỏ, hãy giữ vững! Đúng ba mươi độ dưới không!
Và thế là Sukhov quyết định: đi trạm xá.
Song cũng chính lúc đó một bàn tay đầy quyền lực lột phăng tấm chăn đắp trên người anh, Sukhov hất chiếc trấn thủ ra khỏi mặt, nhỏm dậy. Phía dưới, đầu ngang thành giường tầng trên, là gã giám thị người Tác Ta gầy ốm.
Thế tức là thằng cha này trực đột xuất và hắn đã lẻn vào trại xá tự lúc nào.
- S-854! - tên Tác Ta đọc con số ở tấm mụn trắng khâu trên lưng chiếc trấn thủ màu đen của Sukhov - ba ngày nhà đá, làm việc bình thường!
Cái giọng nghèn nghẹn đặc biệt của hắn mới chỉ vang lên, tức thì trong trại xá mờ tối, nơi không phải ngọn đèn nào cũng sáng, nơi ngủ trên năm chục chiếc giường đầy rệp là hai trăm con người, lập tức tất cả những ai còn đang nằm vội vùng dậy và vội vàng mặc quần áo.
- Vì tội gì ạ, thưa thủ trưởng? - Sukhov hỏi, cố làm cho giọng mình đáng thương hơn là muốn biết lí do.
Làm việc bình thường, có nghĩa mới chỉ một nửa nhà đá thôi, tức là vẫn được ăn nóng và chả còn lúc nào mà nghĩ ngợi. Nhà đá hoàn toàn, đó là ở hẳn trong xà lim, không được ra ngoài làm việc và không được ăn nóng.
- Tại sao giờ này vẫn chưa dậy? Lên phòng chỉ huy!
Tên Tác Ta uể oải giải thích, vì cả hắn, cả Sukhov, và tất cả mọi người đều đã hiểu lí do bị phạt.
Cái mặt nhẵn nhụi, nhăn nhúm của tên Tác Ta không biểu hiện điều gì. Hắn quay lại tìm bắt thêm người khác, song tất cả mọi người, kẻ ngồi trong bóng tối, người ngồi dưới bóng đèn, đều đã xỏ chân vào hai ống quần bông có ghi số hiệu ở đầu gối trái, hoặc đã mặc xong quần áo, khép vạt áo bông, chạy vội ra, đứng chờ hắn ở ngoài sân.
Giá Sukhov bị phạt nhà đá vì tội khác cơ, tội mà anh đáng bị phạt, thì đã chẳng bực mình đến thế. Đằng này bao giờ anh cũng là một trong những người dậy sớm trước tiên. Song anh hiểu, chẳng thể xin xỏ gì ở tên Tác Ta này. Và tiếp tục hỏi cho phải phép, Sukhov, trên người vẫn chiếc quần bông không cởi lúc đi ngủ (phía trên đầu gối trái cũng vá một miếng vải trắng có hàng chữ đen đã bạc màu S-854), mặc áo bông (đằng trước ngực và sau lưng chiếc áo này cũng in số hiệu này), vớ lấy đôi ủng của mình trong cái đống ở trên sàn, đội mũ (gắn cùng số hiệu ở đằng trước), rồi đi theo tên Tác Ta.
Toàn đội 104 đều nhìn thấy Sukhov bị giải đi, song không ai nói một lời nào: nói để làm gì, và liệu nói gì đây? Gíá có đội trưởng thì anh ta có thể can thiệp đôi chút, nhưng hiện anh ta không có mặt. Sukhov cũng không nói với ai một lời, chọc tức thằng Tác Ta này làm gì.
Không cần phải dặn, anh em khắc giữ suất sáng cho anh.
Hai người bước ra ngoài.
Băng giá lập tức choán lấy hơi thở. Hai ngọn đèn pha lớn chiếu bắt chéo khắp vùng từ những cái chòi dựng ở góc xa. Những ngọn đèn ở ngoại vi và trong khu vực trại giam sáng trưng. Đèn nhiều đến nỗi chúng hoàn toàn làm mờ những ngôi sao.
Tiếng ủng nghiến rau ráu trên tuyết, những người tù đang vội chạy làm việc của mình, người đi vệ sinh, người tới kho giữ đồ tiếp tế, người mang kê tới bếp cá nhân, ai cũng đầu rụt vào vai, áo bông cài chặt cúc. Tất cả họ đều thấy lạnh không phải vì băng giá, mà vì ý nghĩ suốt cả ngày hôm nay sẽ phải ở ngoài trời. Tên Tác Ta mặc chiếc áo khoác cà tàng có viền nẹp xanh vẫn bước đều, có vẻ như băng giá hoàn toàn không chạm tới hắn.
Hai người đi qua dãy hàng rào gỗ cao bao quanh khu trừng giới - nhà tù bằng đá trong khu trại giam, cạnh hàng rào giây thép gai ngăn lò bánh của trại với tù nhân; qua góc trại chỉ huy, nơi thanh tà vẹt cũ dùng làm kẻng treo trên một cây cột bằng sợi giây thép to tướng; qua một cây cột khác, trên đó, ở chỗ khuất gió và không cao lắm, có treo một cái hàn thử biểu bị băng tuyết bọc kín. Sukhov liếc mắt nhìn lên chiếc ống màu sữa với hi vọng: nếu nó chỉ âm bốn mươi mốt độ thì tù nhân không bị xua đi làm việc. Chỉ có điều hôm nay nhiệt độ không xuống tới bốn mươi.
Vừa bước vào phòng chỉ huy, hai người lập tức tới thẳng chỗ giám thị. Hoá ra, như Sukhov đã nghi nghi trên đường: chẳng có nhà đá nào cả, chỉ là sàn trong phòng giám thị chưa được cọ rửa. Lúc này tên Tác Ta tuyên bố tha tội cho Sukhov và ra lệnh cho anh lau sàn.
Trước đây việc lau sàn trong phòng dành cho một tù nhân chuyên làm việc này và anh ta không phải làm việc ngoài trại - tức là nhận trực tiếp công việc cần vụ trong phòng chỉ huy.
Song sống lâu trong phòng các xếp, thường xuyên ra vào chỗ ông thiếu tá, trưởng trại, trưởng ban an ninh, phục vụ họ, đôi khi nghe lỏm được chuyện nọ chuyện kia mà ngay đến các giám thị cũng không được biết, hắn lên mặt, cho rằng lau sàn cho mấy tên giám thị tầm thường không xứng với mình. Bọn kia gọi hắn vài ba bận, cuối cùng hiểu ra, bắt đầu triệu đám tù thường tới làm công việc này.
Trong phòng giám thị lò sưởi cháy phừng phừng. Hai tên giám thị đang đánh cờ, cởi hết sống áo, chỉ để lại mỗi áo lót bẩn thỉu, còn tên thứ ba để nguyên cả áo bông có thắt lưng và nguyên cả ủng, đang nằm ngủ trên một chiếc ghế băng hẹp. Ở góc phòng có một chiếc xô với miếng giẻ.
Sukhov sung sướng cảm ơn tên Tác Ta đã tha cho anh:
- Cám ơn thủ trưởng! Từ giờ trở đi tôi hứa sẽ không bao giờ dậy trễ nữa.
Luật lệ ở đây rất đơn giản: xong việc - cứ việc về. Bây giờ, khi được giao việc, Sukhov cảm thấy hết nhức mỏi. Anh xách xô ra giếng, tay không đi găng (vì vội nên anh đã bỏ quên đôi găng dưới gối).
Mấy tay đội trưởng đi nhận việc ở Ban kế họach sản xuất (BKHSX) đang tụ tập dưới chân cột treo hàn thử biểu. Một tay trẻ hơn cả, từng là Anh hùng Liên Xô, trèo lên cột lau chiếc hàn thử biểu.
Phía dưới mọi người gọi với lên:
- Cậu thở ra chỗ khác ấy, kẻo nhiệt độ tăng lên đấy!
- Lên cái con tườu! Lên cái gì!... không ảnh hưởng.
Turin, đôi trưởng của đội Sukhov không có trong đám người này. Đặt chiếc xô và giấu hai tay vào ống tay áo, Sukhov tò mò đứng xem. Anh chàng ở trên cột nói giọng khàn khàn:
- Hai mươi bẩy độ rưỡi, cứt thật!
Ngó lại một lần nữa cho chắc ăn, anh ta nhảy xuống đất.
- Cái nhiệt kế này bố láo, toàn chỉ sai, - có người nào đó nói - Liệu người ta có chịu treo cái tốt trong trại tù không đây?
Đám đội trưởng giải tán. Sukhov chạy ra giếng. Dưới hai vạt mũ đã buông xuống nhưng chưa buộc chặt, tai anh bị băng giá làm cứng lại.
Giếng bị băng phủ dầy nên mãi mới cho được cái xô qua cái lỗ ở miệng giếng. Còn giây kéo thì cứng lại như một cái que.
Sukhov xách chiếc xô bốc hơi về phòng giám thị và nhúng đôi tay đã mất cảm giác vào nước giếng. Anh thấy ấm hơn.
Tên Tác Ta không còn ở đó, trong phòng có thêm một giám thị nữa, họ đã thôi chơi cờ và thôi ngủ, đang cãi nhau xem tháng Giêng này sẽ được lĩnh bao nhiêu kê (trong khu dân cư tình hình thực phẩm thật tồi tệ, và mặc dù tem phiếu đã hết từ lâu, song đám giám thị vẫn được ưu tiên so với dân trong khu, mua một vài thứ giảm giá ).
- Đóng cửa lại thằng ngu! Gió lùa! - một trong mấy tên giám thị quát lên.
Không nên làm ướt ủng ngay từ buổi sáng. Dù có chạy được về trại cũng chẳng có đôi khác mà thay. Suốt tám năm tù Sukhov đã nắm vững tình trạng giầy dép. Có lúc qua cả mùa đông chẳng có lấy một đôi ủng dạ, có lúc ngay giầy thường cũng chẳng thấy, phải đi loại dép làm từ vỏ cây phong hay dép mác STZ (tức loại dép được sáng chế từ vỏ lốp ô tô cũ của xưởng máy cày Cherlabinsk, lúc đi để lại vết lốp xe). Bây giờ tình hình giầy dép có phần khả quan hơn: dạo tháng Mười (nhân được xuống kho với trại trưởng) Sukhov nhận được một đôi giầy chắc chắn, mũi khoẻ, và đủ rộng để có thể quấn tới hai lớp vải bọc chân. Suốt cả tuần Sukhov như người được hưởng lễ thánh, lúc nào cũng khóai trá đập hai gót giầy mới vào nhau.
Thế rồi vào tháng Chạp lại được phát ủng nữa chứ, đời tươi như hoa, thật chẳng muốn chết tí nào. Nhưng có một thằng chó má nào đó ở phòng kế toán rỉ tai thủ trưởng rằng ủng thì vẫn phát, nhưng giầy thì phải thu về, rằng không có cái lệ tù được lãnh hai đôi một lúc.
Và thế là Sukhov phải lựa chọn: hoặc đi giầy cả mùa đông, hoặc đi ủng cho ấm, nhưng phải trả lại đôi giầy. Anh đã nâng niu đôi giầy, đánh cho da mềm ra, giầy mới làm sao chứ, ôi trời! Suốt tám năm ở tù anh không tiếc gì bằng tiếc đôi giầy ấy. Chúng sẽ bị đổ vào một đống, đến mùa xuân chúng sẽ chẳng phải là của anh nữa. Hệt như những con ngựa nhà đem nộp vào nông trang vậy.
Sukhov bỗng nảy ra một sáng kiến. Anh nhanh nhẹn tụt vội đôi ủng, dựng chúng vào góc nhà, ném mớ vải bọc chân lên trên (chiếc thìa rơi xuống sàn; dù có vội vào nhà đá đến mấy, anh vẫn không quên dắt thìa vào ủng) và chân trần, anh nhúng giẻ đẫm nước, lùa đại vào đống ủng của mấy tên giám thị.
- Thằng này, đồ khốn, nhẹ tay chứ! - Một giám thị co chân lên ghế, la lối.
- Sao lại gạo? Gạo chia theo định mức khác, không lấy gạo ra mà so được!
- Mày nhúng ngần ấy nước làm gì hở đồ ngu? Lau nhà kiểu gì vậy?
- Thưa thủ trưởng, không thế thì tài thánh cũng chẳng cọ được, sàn bẩn quá...
- Mày đã nhìn thấy mẹ đĩ nhà mày lau sàn bao giờ chưa hở đồ đầu lợn?
Sukhov đứng thẳng người, tay cầm miếng giẻ rỏ nước tong tong, miệng cười hồ hởi để lộ mấy chiếc răng khuyết do bị bệnh xung huyết đục thủng ở Ust-Izma năm 1943, năm anh đã vượt qua được. Mà vượt qua như thế nào chứ, ỉa chảy ra máu triền miên, cái dạ dầy lép kẹp chả chịu nhận bất cứ thức gì. Bây giờ cái còn lại của thời kỳ ấy là giọng nói phều phào tức cười của anh.
- Thưa thủ trưởng, tôi xa vợ từ năm 1941. Bây giờ chả còn nhớ bà xã ra làm sao nữa.
- Nhìn chúng lau nhà kìa, bọn khốn kiếp, chẳng biết làm cái gì cả, mà cũng chẳng thiết làm nữa. Quân này không đáng ăn bánh mì, ăn cứt mới phải!
- Nhưng việc chó gì mà ngày nào cũng phải lau sàn nhỉ? Làm sao hết ẩm được. Này, số 854! nghe đây. Lau qua thôi, nhúng nước vừa vừa chứ. Lau xong rồi xéo!
- Gạo! Không so kê với gạo được!
Sukhov lau sàn hùng hục. Công việc giống như đòn xóc hai đầu: làm cho thiên hạ đòi hỏi chất lượng, làm cho thủ trưởng chỉ cần tỏ vẻ thôi. Nếu không tất cả đã ngỏm củ tỏi từ lâu rồi. Đó là cái chắc.
Sukhov lau qua sàn gỗ một lượt nữa, không để sót một chỗ khô nào rồi ném luôn cái giẻ chưa vắt vào phía sau chiếc lò, ra đến cửa anh xỏ ủng, hắt chỗ nước còn lại trong xô lên lối đi, chỗ các thủ trưởng hay qua lại, và đi tắt qua nhà tắm, qua nhà câu lạc bộ tối om, lạnh lẽo, đến nhà ăn.
Anh còn phải kịp đến trạm xá nữa, bây giờ lại thấy đau ê ẩm cả người. Lại còn phải tránh không để bọn giám thị nhìn thấy trước cửa nhà ăn: trại trưởng đã ra lệnh triệt để bắt giữ và nhốt xà lim các phạm đi một mình.
Hôm nay, trước cửa nhà ăn không đông người, không phải xếp hàng. Quả là một trường hợp hi hữu. Vào thôi.
Bên trong nhà ăn mù mịt như nhà tắm hơi, nào là hơi nước do băng tan ở cửa tràn vào, nào là hơi súp loãng của nhà ăn bốc lên. Người các đội ngồi la liệt sau bàn, hoặc đứng chen chúc ở lối đi giữa các dãy bàn chờ lấy chỗ. Vừa la lối, vừa len lỏi qua đám đông, hai, ba người thuộc mỗi đội bê khay gỗ chất những bát súp và cháo, tìm chỗ trống trên bàn để đặt xuống.
Gào lên như thế mà cái thằng ngớ ngẩn này vẫn không nghe thấy gì, xô luôn vào khay người ta làm đổ tung đổ toé thế này! Tiện cái tay để không ông cho mày mấy nhát vào gáy, vào gáy. Cứ phải làm thế cho chừa cái thói lớ xớ kiếm chác, liếm láp đồ ăn thừa mà vướng cả lối đi.
Ở đằng kia, ngồi sau bàn là một chàng trai trẻ đang làm dấu thánh trước khi ăn.
Chắc là dân vùng Tây Ucraina, hoặc là phạm mới, chứ dân Nga thì từ lâu đã chẳng nhớ phải làm dấu bằng tay nào rồi.
Ngồi trong nhà ăn vẫn lạnh, nên phần đông các phạm đội mũ trong lúc ăn. Nhưng mà họ chẳng vội, vớt hết những mẩu cá thối bé tí lẫn trong đám lá bắp cải, rồi nhổ xương ra bàn.
Khi xương cá chất thành đống sẽ có một người nào đó gạt xuống đất trước khi đội mới ngồi vào, và rồi xương sẽ bị dẫm nát bét dưới đất.
Nhổ ngay xương xuống sàn bị coi là bất lịch sự.
Giữa nhà ăn có hai dãy không ra cột nhà, không ra dàn chống. Ngồi cạnh một trong những cái cột ấy là Fechiukhov, người cùng đội với Sukhov, đang giữ suất sáng cho anh. Đó là một trong những thằng vét đĩa nhất đội, còn kém cả Sukhov nữa. Bề ngoài tưởng chừng mọi người trong đội ai cũng như ai - cũng áo bông đen, cũng mang số - nhưng bên trong thì khác nhau lắm - có thứ bậc, đẳng cấp rõ ràng. Buinovski, chẳng hạn, không thuộc hạng người ngồi giữ bát cho kẻ khác, hay chẳng phải việc nào Sukhov cũng phải dúng tay vào, đã có những kẻ thấp kém hơn anh phải làm. Nhìn thấy Sukhov, Fechiukhov thở dài và đứng dậy nhường chỗ cho anh.
- Nguội hết cả rồi, tôi đã định xơi hộ anh. Cứ tưởng anh nằm nghỉ ở nhà đá cơ.
Hắn không đứng chầu, vì biết Sukhov sẽ không để lại chút gì cho hắn. Ai chứ cha này đánh nhẵn cả hai bát cho coi.
Sukhov rút chiếc thìa giắt trong bốt ra. Chiếc thìa này quý giá đối với anh, nó đã theo anh khắp miền Bắc. Chính anh đã đổ khuôn cát đúc nó từ một sợi giây nhôm và khắc lên dòng chữ: “Ust - Izma, 1944”.
Sukhov bỏ mũ khỏi cái đầu trọc của mình - dù lạnh mấy anh cũng không bao giờ để nguyên mũ mà ăn. Anh khuấy bát súp đã nguội, vội xem trong đó có gì. Vẫn như mọi khi, không phải súp múc đầu nồi, cũng không phải súp vét nồi. Thằng Fechiukhov trong lúc giữ hộ khẩu phần, dám hớt của mình một củ khoai tây lắm.
Súp trong trại đôi khi ngon do nóng, nhưng bây giờ tô súp của Sukhov đã nguội ngắt. Dù vậy anh vẫn ăn chậm rãi và nhâm nhi như thường lệ. Chả việc gì phải vội, dù có cháy nhà cũng mặc. Ngoài lúc ngủ, tù nhân được sống cho mình 10 phút vào bữa sáng, năm phút vào bữa trưa và năm phút vào bữa tối.
Súp thì ngày nào cũng vậy, không thay đổi. Chỉ có tuỳ thuộc vào loại rau nào trữ được trong mùa đông. Năm ngoái chỉ trữ được cà rốt, muối, vì vậy suốt từ tháng Chín tới tháng Sáu năm sau trong súp chỉ có độc mỗi cà rốt. Bây giờ là bắp cải thối. Trại được ăn ngon nhất vào tháng Sáu, khi mọi thứ rau đều đã hết, phải dùng đến lúa mạch. Tệ nhất là tháng Bẩy, người ta trộn lá tầm ma xé nhỏ vào nồi.
Cá thì toàn loại nhỏ và rặt những xương. Thịt cá đã bị nấu rữa hết, chỉ còn dính một ít ở đầu và đuôi. Không bỏ sót một cái vẩy hay một mẩu thịt còn dính trên bộ xương cá, Sukhov nhai nát hết xương, hít lấy nước, rồi nhả bã xuống bàn. Tất cả những gì có trong con cá anh ăn bằng hết, kể cả mang, kể cả đuôi, mắt cá anh cũng ăn nếu như nó còn nguyên tại chỗ, chỉ khi nào những mắt cá lớn bị long ra và nổi lềnh bềnh trong bát thì anh mới không ăn. Ai cũng cười anh về chuyện này.
Hôm nay Sukhov để dành được đôi chút: anh không có mặt trong phòng lúc phát khẩu phần bánh mì buổi sáng, vì vậy lúc này anh ăn súp không. Bánh mì lúc nào ăn chả được, ăn sau càng đỡ đói.
Món thứ hai là cháo magara đã nguội ngắt và đặc cứng vón thành từng cục. Cái món magara này có nóng cũng không ngon, ăn chẳng thấy no, vì chỉ độc cỏ là cỏ, có điều nó màu vàng nên trông giống màu cháo mạch. Người ta nghĩ ra cách dùng nó thay cho hạt mạch và bảo rằng đó là học được của người Tầu. Khi nấu lên một bát cháo nặng chừng 300gram - thế là ổn: cháo không ra cháo, nhưng thay được cho cháo.
Sukhov liếm thìa, giắt vào chỗ cũ trong ủng, đội mũ, rồi đi trạm xá.
Trời vẫn tối đen, những ngôi sao đã bị đèn pha của trại xua đi mất. Và hai luồng sáng rộng của chiếc đèn pha vẫn quét đi quét lại khắp khu trại giam. Vì đây là trại đặc biệt(3), nên lúc đầu còn có cả pháo sáng chuyên dụng cho mặt trận nữa. Hễ động mất điện là ngay lập tức pháo sáng vãi lên trời, trắng xanh đỏ tím vàng, như thể chiến tranh thực sự. Sau này người ta ngừng bắn pháo sáng, có thể vì quá tốn kém.
Trời vẫn còn là đêm, như lúc có lệnh báo thức, song người có kinh nghiệm căn cứ vào những dấu hiệu nhỏ nhặt khác nhau dễ dàng biết được lệnh điểm danh sắp sửa nổi lên. Tên phụ việc cho thằng Thọt (Thọt là biệt hiệu đặt cho một tên cần vụ trong nhà ăn. Hắn tự nuôi một người giúp việc) đi gọi trại xá 6 tới ăn sáng. Đây là nơi dành cho những phạm tàn tật, không thể làm việc ở ngoài trại. Một ông họa sỹ già đang tập tễnh tới bộ phận Văn hoá - Giáo dục của trại lấy sơn và cọ để vẽ số hiệu lên quần áo của phạm. Lại thấy thằng cha Tác Ta đang vội vã sải bước băng qua đường về phía phòng trại trưởng. Không có mấy người ở ngoài sân, có nghĩa tất cả các phạm đang ngả ngốn trong phòng sưởi ấm, tận hưởng những giây phút ngọt ngào cuối cùng.
Sukhov mau lẹ nấp ngay sau góc nhà để tránh mặt tên Tác Ta. Lần thứ hai mà để hắn tóm được thì khốn to. Mà cũng chẳng phải mình hắn, lúc nào cũng phải mở to mắt ra mà nhìn, đừng bao giờ để một tên giám thị nào bắt gặp anh đi một mình, mà phải đi cùng với cả bọn.
Hắn rình bắt người hoặc để làm việc gì đó, hoặc để trút cơn giận dữ. Lệnh đã ban cho toàn trại: khi gặp giám thị phải bỏ mũ cách năm bước và chỉ được đội sau khi đi được hai bước.
Có những giám thị nhắm mắt làm ngơ, chả thèm để ý, nhưng cũng có những kẻ lấy làm khoái cái trò này lắm. Biết bao nhiêu phạm đã phải vào nhà đá vì cái trò này rồi, lũ chó đáng nguyền rủa. Thôi chả dại, hãy cứ tạm lánh vào cái góc này đã.
Tên Tác Ta đi khỏi, Sukhov vừa định đi tiếp tới trạm xá thì chợt nhớ ra anh có hẹn với tên người Latvi cao kều bên trại xá 7 để mua thuốc lá sợi của hắn vào sáng nay, trước giờ điểm danh. Từ sớm tới giờ anh bận quá nên quên khuấy đi mất. Anh chàng Latvi này mới nhận được đồ tiếp tế hôm qua, ngày mai chắc sẽ chẳng còn lấy một sợi thuốc. Lại phải đợi thêm một tháng nữa, cho tới khi hắn nhận được đồ tiếp tế mới. Thuốc của hắn khá ngon, nặng vừa phải, lại thơm nữa. Thứ thuốc có màu hơi nâu nâu.
Sukhov phân vân đứng lại nghĩ xem có nên quay lại trại 7 không, nhưng trạm xá chỉ còn cách vài bước chân. Anh sợ sệt tiến tới bậc thềm trạm xá, tuyết lạo xạo dưới chân.
Hành lang trạm xá, như mọi khi, sạch tới mức sợ phải bước trên đó. Tường sơn màu trắng sáng lóa. Bàn ghế cũng trắng tinh.
Nhưng cửa của tất cả các phòng đều đóng. Các bác sĩ giờ này chắc đang còn nằm trên giường. Người trực hôm nay là y tá Kolia Vdovuskin - một chàng trai trẻ, mình bận blu trắng tinh, ngồi sau chiếc bàn nhỏ sạch sẽ, đang viết cái gì đó. Ngoài ra không có ai.
Sukhov bỏ mũ, như khi đứng trước thủ trưởng, và theo thói quen trong trại, không nhòm vào những chỗ không nên nhìn, song không thể không nhận thấy Nikolai đang viết những dòng chữ rất đều nhau và mỗi dòng, đều chằn chặn từ trên xuống dưới, được bắt đầu bằng một chữ cái hoa viết thụt vào so với dòng kẻ. Sukhov tất nhiên hiểu ngay rằng đó không phải công việc, Nikolai đang làm việc riêng, song chẳng hơi đâu mà để ý.
- Có việc này... Nikolai Semenych... hình như... tôi bị ốm thì phải... - Sukhov ấp úng, có cảm giác sắp sửa quỵt nợ người khác.
Vdovuskin ngừng viết, ngước đôi mắt to, lạnh lùng. Anh ta đội mũ trắng, mặc áo choàng trắng, không có số tù.
- Sao đến muộn thế? Chiều tối qua sao không tới? Anh biết buổi sáng trạm xá không khám bệnh chứ? Danh sách những tù nhân được nghỉ việc đã gửi sang BKHSX rồi.
Sukhov thừa biết tất cả. Anh cũng biết bứt ra một lúc buổi tối đâu có dễ dàng gì.
- Nhưng, Kolia à, khổ nỗi là lúc tối, khi cần nó có đau cho đâu...
- Đau ra làm sao? Đau cái gì?
- Cũng không biết đau chỗ nào nữa, nhưng toàn thân cứ rã rời.
Sukhov không thuộc những kẻ thường xuyên chầu chực ở trạm xá và Vdovuskin cũng biết vậy. Song anh ta chỉ được phép cho hai người nghỉ việc buổi sáng, và anh ta đã cho hai người nghỉ rồi. Tên của họ đã ghi trong danh sách đặt dưới tấm kính màu xanh trên bàn và phía dưới bảng danh sách đã có một đường gạch chéo.
- Anh phải lo từ sớm chứ. Ai lại ngay trước giờ điểm danh bao giờ? Đây!
Vdovuskin rút một chiếc cặp nhiệt độ trong đám cặp nhiệt độ cắm trong một cái lọ giữa những miếng gạc, lau khô, rồi đưa cho Sukhov.
Sukhov khép nép ngồi xuống chiếc ghế dài đặt cạnh tường, sát mép đầu ghế, cố không để nó bị lật. Anh cố tình chọn cái thế ngồi bất tiện như vậy để tỏ ra rằng mình xa lạ với trạm xá, rằng anh tới đây đâu có xin xỏ gì nhiều.
Vdovuskin lại tiếp tục viết.
Trạm xá là một khu biệt lập hẳn, nằm ở một góc xa của trại và không một âm thanh nào vọng được tới đây. Không một tiếng tích tắc của đồng hồ - tù nhân không được đeo đồng hồ - đã có thủ trưởng quản thời gian cho họ. Thậm chí ngay tiếng chuột cũng không nghe thấy, chúng đã bị con mèo của trạm xá vồ hết. Nó được nuôi để làm công việc này.
Ngồi trong một căn phòng sạch sẽ, tĩnh mịch dường này, dưới ngọn đèn sáng choang và chả phải làm gì những suốt năm phút đồng hồ, Sukhov cảm thấy kì kì thế nào. Anh ngắm nghía tất cả các bức tường và chẳng thấy gì ở trên đó. Anh săm soi chiếc áo trấn thủ của mình, số hiệu trên ngực áo đã mờ rồi đây, phải làm cho mới lại, chẳng lại rách việc. Anh sờ đám râu trên mặt - rậm rồi đây, từ lần chót được thăm nhà tắm tính tới hôm nay đã mười hôm rồi còn gì. Kệ mẹ nó. Còn ba ngày nữa tới kỳ tắm rửa, lúc ấy cạo một thể. Việc chó gì phải ngồi xếp hàng chờ đợi ở chỗ hớt tóc. Có ma nào coi mà đỏm với dáng.
Nhìn chiếc mũ trắng tinh của Bdovuskin, Sukhov chợt nghĩ tới cái bệnh viện dã chiến bên bờ sông Lovat, cái hồi anh được đưa tới đó với cái quai hàm bị vỡ và khi ấy - ngu không chịu được - anh đã tình nguyện xin trở lại mặt trận, trong khi có quyền được nằm nghỉ những năm ngày.
Bây giờ thì chỉ ao ước ốm lấy độ hai ba tuần, chỉ đừng thập tử nhất sinh, hay bị mổ xẻ gì, cốt yếu được nằm bệnh viện - nằm yên ba tuần, không động đậy, dù phải húp canh xuông cũng được.
Nhưng Sukhov chợt nhớ ra bây giờ ngay cả trong bệnh viện cũng không được nằm. Có một tay bác sĩ vừa tới cùng với một mẻ tù mới, tên là Stepan Grigorich - một người lắm mồm, chân tay không lúc nào yên, và cũng không để cho bệnh nhân được yên. Lão nẩy ra sáng kiến bắt tất cả các bệnh nhân còn đi lại được phải làm việc xung quanh bệnh viện: rào giậu, dọn lối đi, chở đất đắp các luống hoa. Mùa đông thì dọn tuyết. Hắn luôn mồm nói làm việc là cách chữa bệnh tốt nhất.
Nhưng lão đâu có chịu hiểu, làm việc quá sức thì đến ngựa cũng phải lăn ra chết. Cứ thử vác đá xây tường một hôm xem, có mà im như thóc.
Vdovuskin vẫn mải miết viết. Anh ta đúng là đang làm “việc riêng”, nhưng là một việc mà Sukhov không đủ sức hiểu. Anh ta đang chép lại một bài thơ dài hôm qua mới chữa xong và hứa hôm nay sẽ cho Stepan Grigorich xem, cái lão bác sĩ lắm mồm ấy.
Chuyện như thế này thì chỉ trong trại tù mới có. Số là Stepan Grigorich gà cho Vdovuskin tự nhận là y tá, và cho hắn làm công việc này. Thế rồi Vdovuskin bắt đầu học tiêm trên cơ thể tù nhân, những người Litva, Estoni chất phác, cả tin, không bao giờ có thể nghĩ rằng y tá lại có thể chưa một ngày là y tá. Kolia thực ra là sinh viên khoa văn, bị bắt từ năm thứ hai.
Stepan Grigorich muốn trong tù anh ta ngồi viết những cái mà ở “bên ngoài” anh ta không được phép.
Tiếng còi báo hiệu điểm danh vẳng đến qua hai lớp cửa sổ phủ đầy băng tuyết. Sukhov thở dài, đứng dậy. Người anh vẫn lúc nóng lúc lạnh như trước, song xem ra anh chẳng có cơ hội nào để nghỉ việc. Vdovuskin với tay lấy cái cặp nhiệt độ và nheo mắt nhìn.
- Xem đấy, 37 độ 2. Gíá 38 độ thì chả phải bàn. Tôi không thể cho anh nghỉ việc được. Nếu không sợ thì anh cứ ở lại. Sau khi khám, nếu anh ốm thật, thì bác sĩ sẽ cho anh nghỉ. Nếu khỏe - anh sẽ phải vào nhà đá. Tốt nhất nên đi làm.
Sukhov không trả lời, thậm chí không gật đầu, chụp mũ lên đầu rồi đi ra.
Không phải ăn nhạt đâu biết thương đến mèo.
Băng giá đánh thốc vào người Sukhov. Cái lạnh và sương mù giá buốt bóp nghẹt Sukhov làm anh bật ho. Nhiệt độ ngoài trời âm 27, còn trong cơ thể anh là 37 độ. Bây giờ ai thắng ai đây.
Sukhov hối hả chạy về trại. Sân trại vắng tanh và toàn khu trại giam không một bóng người.
Đó là giây phút thư giãn ngắn ngủi, khi không còn cách nào thoát được nữa, song người ta vẫn tự huyễn hoặc rằng sẽ có cách, rằng sẽ không có điểm danh. Những người lính áp giải đang ngồi trong doanh trại ấm áp, tựa đầu vào súng thiu thiu ngủ, họ cũng đâu có sung sướng gì khi phải đứng đập chân nọ vào chân kia trên các chòi gác trong cái lạnh cắt da cắt thịt này. Những người lính gác ở trạm gác chính ném thêm than vào lò. Những người giám thị trong phòng giám thị hút nốt điếu thuốc cuối cùng trước khi ra lục soát tù nhân. Còn tù nhân - bây giờ đã đóng đủ mọi thứ quần áo rách rưới, chằng đụp lên người, quấn đủ thứ dây nhợ xung quanh thắt lưng, quấn mặt bằng giẻ từ cằm lên tận mắt để chống lạnh - đang nằm trên giường, chân đi ủng dạ. Họ nằm yên, mắt nhắm lại trong khi đội trưởng còn chưa gào lên: “Ra tập hợp!”.
Đội 104 gà gật cùng với tất cả các phạm trong trại số 9. Chỉ có đội phó Pavlo là còn đang lập bập môi tính toán cái gì đó bằng bút chì. Ở giường trên, anh chàng theo phái Tẩy lễ Aliosa, láng giềng của Sukhov, gọn gàng, sạch sẽ, đang đọc cuốn sổ tay trong đó đã chép được tới phân nửa kinh Phúc Âm.
Sukhov chạy vụt vào, nhưng không gây ra tiếng động, tiến thẳng tới giường đội phó.
Pavlo ngẩng đầu lên.
- Không phải vào nhà đá ư, Ivan Denicych? Còn sống hả? (không làm sao dậy nổi cái dân miền Tây Ucraina này, cả đến trong tù chúng cũng vẫn còn lễ phép gọi ta bằng cả tên lẫn phụ danh).
Pavlo lấy từ trên bàn khẩu phần bánh mì đưa cho Sukhov. Trên bánh mì có mấy miếng đường trắng vun lại thành đống nhỏ.
Tuy đang rất vội, song Sukhov vẫn lễ phép trả lời (đội phó cũng là thủ trưởng, thậm chí nhiều việc còn tuỳ thuộc vào anh ta hơn là trại trưởng). Vội ơi là vội, anh lấy môi tợp một nhát hết mấy viên đường, liếm sạch miếng bánh, đặt một chân lên mép giường dưới, trèo lên để thu dọn chăn đệm ở giường mình. Anh ngó khẩu phần bánh mì, lấy tay nhấc nhấc xem có đủ 500 gram là phần anh được lĩnh không. Trong các nhà tù và trại giam, Sukhov đã lĩnh có đến cả ngàn khẩu phần như vậy, và dù chưa có một dịp nào cân thử, dù chưa một lần dám lên tiếng để bảo vệ quyền lợi của mình - anh là người nhút nhát, - song, cũng như tất cả các phạm khác, Sukhov từ lâu đã biết rằng làm trong bộ phận cắt và chia bánh mì mà cân đủ thì có trụ lâu được khối. Mỗi khẩu phần đều bị cắt xén, có điều kiểm xem có thiếu nhiều hay không thôi. Vì vậy ngày hai lần kiểm tra để tâm trí được yên ổn, có thể hôm nay chúng cắt xén của mình không đến nỗi nhiều quá chăng? Có thể phần mình gần đủ cân lạng chăng?
Thiếu 20 gờ ram, không hơn, Sukhov kết luận và bẻ phần bánh ra làm hai. Anh nhét một nửa vào bên trong áo trấn thủ, chỗ bụng, ở đó anh khâu vào một cái túi nhỏ bằng vải trắng (xưởng may áo trấn thủ cho tù không bao giờ làm túi). Còn nửa kia, cái nửa anh đã tiết kiệm được ở bữa sáng, anh định bụng ăn quách ngay, song đồ ăn mà ăn vội thì sẽ chẳng còn là đồ ăn nữa, phí hoài đi, chẳng bõ dính bụng. Anh nhoài người nhét nửa phần bánh vào trong cái tủ nhỏ, song lại đổi ý: anh còn nhớ bọn cần vụ đã hai lần nhừ đòn vì tội ăn cắp rồi. Cái trại rõ rộng, y như sân công cộng.
Cho nên, tay không rời mấy miếng bánh, Ivan Denisovich rút chân ra khỏi bốt, để nguyên vải quấn chân và cái muỗng giắt ở đó, anh trèo chân không lên hẳn giường, vạch rộng cái lỗ nhỏ ở nệm giường và nhét nửa khẩu phần vào đó, giấu dưới lớp mạt cưa. Anh lột mũ trên đầu xuống, rút từ trong đó ra một cái kim đã xâu sẵn chỉ (cái này cũng phải giấu kỹ, vì họ cũng nắn cả mũ để kiểm tra; có lần một viên giám thị bị kim đâm vào tay, cáu tiết, phang Sukhov suýt vỡ đầu). Một mũi, mũi nữa, mũi nữa - thế là xong, cái lỗ giấu bánh đã được khâu túm lại. Trong lúc đó thì đường trong miệng cũng tan. Sukhov căng thẳng tột độ: viên kiểm tra nhân công sắp réo lên bây giờ. Các ngón tay Sukhov chuyển động mau lẹ, trong khi đầu óc anh vượt lên trước, tính toán xem sẽ làm gì tiếp theo.
Anh chàng Tẩy lễ đang đọc kinh, áng chừng không đọc nhẩm cho bản thân mà còn cố tình đọc to cho cả Sukhov nghe. (Đám người theo phái Tẩy lễ, giống như chính trị viên, rất khoái tuyên truyền): “Trong anh em chớ có ai chịu khổ như kẻ giết người, kẻ trộm cắp, kẻ làm ác, kẻ thày lay việc người khác. Nhưng nếu có ai vì làm cơ đốc đồ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn; trái lại, hãy vì danh ấy mà tôn vinh Đức Chúa Trời”.
Aliosa giỏi ở chỗ: hắn giấu cuốn sổ này trong một cái lỗ ở trên tường khéo đến nỗi, cho tới nay, qua bao cuộc khám xét, nó vẫn chưa bị phát hiện.
Vẫn nhanh thoăn thoắt, Sukhov treo chiếc áo trấn thủ của anh lên xà ngang, lôi từ dưới nệm đôi bao tay, hai chiếc xà cạp cũ, một đoạn giây thừng và một miếng giẻ có hai cái giải. Anh san bằng mạt cưa trong tấm nệm (mạt cưa nặng và nhồi chật cứng) cài bốn góc chăn xuống dưới đệm, ném chiếc gối vào chỗ cũ - vẫn chân trần như thế tuột xuống dưới sàn và bắt đầu đi bốt. Thọat đầu, anh quấn chân bằng đôi xà cạp mới, sau đó quấn lên trên đôi đã cũ.
Cùng lúc đội trưởng dặng hắng, đứng dậy tuyên bố:
- Chấm dứt ngủ đêm, đội một lẻ bốn, r-a n-g-oài!
Lập tức toàn đội, dù có ngủ hay không, đứng bật cả dậy, ngáp ngắn ngáp dài, bước ra cửa.
Đội trưởng đã ngồi tù mười chín năm, chẳng đời nào lại xua anh em ra ngoài sớm một phút trước giờ điểm danh. Anh mà đã nói “ra ngoài”, có nghĩa đến lúc phải ra thật.
Trong khi các phạm bước những bước nặng nề, im lặng, lần lượt nối đuôi nhau, đầu tiên ra hành lang, sau đó qua phòng ngoài rồi tiến ra thềm nhà, và khi đội trưởng đội hai mươi, bắt chước Turin, cũng hô lên “ra- n-g-oài”, thì Sukhov đã kịp nhét hai chân quấn chặt xà cạp vào đôi ủng dạ, áo bông mặc ngoài trấn thủ và thắt thật chặt bằng một sợi dây thừng (thắt lưng da của tù nhân đã bị tịch thu - trong các trại “đặc biệt” họ không được phép dùng).
Phút chót Sukhov cũng làm xong mọi việc và đuổi kịp mấy người cuối cùng trong đội mình - anh nhìn thấy lưng mang số hiệu của họ đã ở phía ngoài cửa dẫn ra thềm nhà. Khoác mọi thứ sống áo có được lên người, trông to sù, cồng kềnh, các phạm nối đuôi nhau không thẳng hàng, chẳng buồn xô đẩy nhau, nặng nề bước ra sân, chỉ nghe thấy tiếng bốt nghiến mặt đất đóng băng rào rạo.
Trời vẫn còn tối, tuy nhiên đằng đông đã bắt đầu hửng, nhuốm một màu xanh lục. Một cơn gió nhẹ, nhưng buốt giá, từ phía đông thổi tới.
Không gì cay nghiệt hơn những giây phút này - đứng xếp hàng chờ điểm danh buổi sáng.
Trong bóng tối, trong giá buốt, với cái bụng rỗng không - cho tới suốt cả ngày. Lưỡi như bị rút mất. Chẳng ai buồn nói chuyện với ai.
Ở chỗ tù tập hợp, viên phó giám công đang lồng lộn.
- Sao, Turin, còn phải đợi bao lâu nữa hả? Lại định câu giờ hẳn?
Người sợ tay phó giám công này chỉ có thể là Sukhov, chứ không bao giờ là Turin. Anh ta chẳng thèm phí lời với hắn, chỉ im lặng giậm giậm gót giầy. Cả đội xếp hàng theo anh, tiếng ủng dẫm tuyết lạo xạo.
Chắc hẳn một ki lô mỡ muối đã được đem hối lộ - bởi các đội bên cạnh đều nhìn thấy 104 vẫn xếp hàng ở chỗ mọi khi. Chỉ những đội vừa nghèo, lại vừa khù khờ, là bị đẩy đi xây dựng Khu Dịch xá. Chúa ơi, hôm nay mà phải ra ngoài đó thì đời ra bã, 27 độ dưới không kèm theo gió, không chỗ trú chân, không củi sưởi!
Đội trưởng cần nhiều mỡ lợn muối: vừa phải hối lộ các thủ trưởng trên BKHSX, vừa phải nuôi cái bụng mình. Bản thân đội trưởng không nhận được đồ tiếp tế, nhưng thiếu mỡ muối là không được. Phạm nào trong đội nhận được tiếp tế, lập tức phải cống nộp ngay.
Bằng không đừng hòng mà sống nổi.
Viên trưởng giám công đánh dấu trên tấm bảng nhỏ cầm tay:
- Turin, đội của anh hôm nay có một người ốm, đi làm hai mươi ba người, có phải không?
- Hai mươi ba người - đội trưởng gật đầu.
Thằng nào vắng mặt? Lại thằng Panteliev. Thằng ấy mà ốm?
Ngay lập tức những tiếng xì xào nổi lên trong đội: Panteliev, quân chó đẻ, lại chuồn được rồi. Nó thì ốm đau gì. Bên an ninh giữ lại thì có. Lại sắp sửa tố cáo ai đó cho mà xem.
Ban ngày họ gọi nó lên để đỡ gây ồn ào, giữ đến ba tiếng đồng hồ cũng chả sao, chẳng ai nhìn thấy, nghe thấy.
Họ dàn xếp việc này qua danh sách của trạm xá...
Cả sân trại đen ngòm màu áo bông của phạm. Các đội rục rịch nhích dần tới chỗ khám xét.
Sukhov sực nhớ cần phải làm mới số hiệu trên áo, nên anh vội lách sang phía bên kia sân.
Đã có hai ba phạm đứng xếp hàng trước mặt ông họa sĩ. Sukhov đứng vào hàng. Cái số hiệu này báo hại anh em không ít: cứ theo số hiệu giám thị có thể nhìn thấy phạm từ xa, lính canh trên chòi cao có thể ghi lại, còn để nó mờ đi hả - vào nhà đá: ai bảo không giữ gìn cẩn thận?
Trong trại có ba họa sĩ, vừa vẽ tranh không công cho các thủ trưởng, vừa thay phiên nhau tô mới các số hiệu trên áo tù ở chỗ điểm danh. Hôm nay đến lượt ông họa sĩ già râu hoa râm.
Khi ông họa sĩ tô số hiệu trên mũ tù trông chả khác gì cha cố đang xức dầu thánh lên trán con chiên. Vẽ vẽ, quệt quệt, rồi lại thổi lên đầu các ngón tay đeo găng. Găng tay đan mỏng, bàn tay ông tê dại không sao tô nổi các con số.
Ông họa sĩ tô mới con số S-854 trên áo trấn thủ của Sukhov, và anh chẳng buồn thắt lại áo bông, bởi đội anh đã tiến gần đến chỗ kiểm soát rồi. Cầm sợi giây thừng trong tay, anh vội đuổi theo họ. Sukhov bất chợt nhìn thấy Sezar, người cùng đội, đang hút, không phải thuốc sợi, mà là thuốc điếu hẳn hoi. Có nghĩa anh có thể xin hắn mẩu thuốc. Song anh không xin thẳng, mà đứng sát ngay cạnh Sezar, quay nửa mặt về phía hắn.
Anh ngó xéo, ra cái bộ không cần, song vẫn nhìn thấy, cứ sau mỗi lần rít vào (Sezar đang nghĩ ngợi điều gì đó nên không rít liên tục) thì cái lằn tàn đỏ lại chạy dọc theo điếu thuốc và mỗi lúc một cháy gần chiếc tẩu.
Vừa lúc thằng Fechiukov, đồ chó hoang, quân liếm đĩa, lù lù mọc ngay trước mặt Sezar, nhìn chòng chọc vào miệng anh ta, hai mắt sáng rực.
Sukhov không còn lấy một sợi thuốc, anh biết trước cho tới tận tối sẽ chẳng đào đâu ra và lúc này đây anh căng thẳng chờ đợi, khao khát được người ta vứt cho mẩu thuốc còn hơn được trả tự do. Nhưng anh đâu có hạ thấp mình mà nhìn chòng chọc vào miệng người ta như cái thằng Fechiukov chó má ấy.
Sezar là người lai đủ thứ giống - chẳng thể hiểu được hắn là người Hi Lạp, Do Thái hay Sưgan. Hắn còn trẻ, ngày trước làm nghề quay phim, nhưng chưa làm được phim nào đã bị bắt vào tù. Hắn có bộ ria đen và rậm. Sở dĩ ở đây người ta không bắt cạo đi, vì trong hồ sơ của hắn, tất cả các bức ảnh đều có ria.
- Sezar Markovich! - không nhịn được Fechiukov nuốt nước bọt ừng ực - cho tôi xin một hơi!
Và mặt hắn hằn lên sự tham lam và thèm khát.
Sezar hé mắt nhìn Fechiukov, hai hàng lông mi rợp xuống đôi mắt đen. Hắn hay dùng tẩu chính vì không muốn người ta làm phiền, xin xỏ lúc mình hút thuốc. Hắn không tiếc thuốc, mà tiếc dòng suy nghĩ bị cắt ngang. Hắn hút thuốc để đánh thức trong mình ý nghĩ mạnh mẽ và giúp nó tìm kiếm cái gì đó. Nhưng cứ hễ bắt đầu hút là y như rằng hắn nhìn thấy không biết bao nhiêu cặp mắt: “Cho xin tí mẩu thừa!”.
Sezar quay sang Sukhov và nói:
- Cầm lấy, Ivan Denisych!
Ngón tay to tướng của hắn rút mẩu thuốc là từ cái tẩu ngắn bằng hổ phách.
Sukhov giật mình (anh đã đợi để Sezar tự mời mình), vội đưa một tay đỡ lấy mẩu thuốc một cách biết ơn, tay kia đỡ phía dưới phòng nó rơi xuống đất. Anh không tự ái vì Sezar không cho mình hút mẩu thuốc thừa bằng tẩu của hắn (có người mồm sạch, có người mồm thối), và tay anh thì chai sạn tới mức có thể hút đến tận cùng mẩu thuốc cũng không sợ bị bỏng. Cái chính là anh đã phỗng tay trên của thằng mót rác Fechiukov kia và lúc này anh rít một hơi dài chút nữa bỏng cả môi. M-m-m-m! khói thuốc lan tỏa trong cái cơ thể đói khát của anh, đọng lại ở chân và đầu.
Đúng cái lúc cảm giác đê mê lan tỏa khắp cơ thể, thì thì có tiếng ồn ào nổi lên:
- Chúng nó tịch thu áo lót!
Cũng như các phạm khác, cuộc sống trong tù đã tạo cho Sukhov một thói quen: phải cẩn thận, chỉ cần sơ ý một tí là chúng trấn ngay.
Nhưng tại sao lại là áo? Chính trại trưởng đã phát cơ mà? Không, chắc không phải ...
Đội của Sukhov chỉ còn cách trạm kiểm soát có hai đội, và tất cả mọi người đều nhìn thấy rõ trung uý Volkovoi - thủ trưởng bộ phận an ninh, đang từ phòng chỉ huy xuống và đang quát tháo bọn giám thị về việc gì đó. Mấy tay này lúc Volkovoi chưa tới thì làm việc lờ phờ lắm, bây giờ thì cuống quýt nhảy xổ vào anh em như bầy thú, còn sếp của chúng thì la lên:
- C - ở-i á-o!
Không chỉ phạm nhân và giám thị sợ Volkovoi, mà ngay đến trại trưởng cũng sợ hắn. Ông Trời trông mặt mà đặt tên(4), không thế Volkovoi đã không có cái nhìn của loài chó sói. Hắn người cao, tóc đen, mặt mũi cau có, thoắt ẩn, thoắt hiện. Hắn thường xuất hiện từ trong một góc trại nào đó, quát tháo: “Tụ tập ở đây làm gì thế này?”. Lúc ấy thì có mà chạy đằng trời.
Trước đây hắn còn mang theo một cái roi bằng da bện, dài bằng cả cánh tay. Nghe nói, hắn đánh người ở khu trừng giới bằng cái roi ấy. Hoặc trong giờ điểm danh buổi chiều, khi phạm túm tụm ở cạnh trại, từ đằng sau hắn quất roi vào gáy người ta: “Sao không đứng vào hàng, lũ mắc dịch?”. Người bị ăn roi ôm lấy gáy, lẳng lặng chùi máu: cứ thử kêu lên xem, vào nhà đá tức thì.
Bây giờ chẳng hiểu sao hắn không mang theo roi nữa.
Khi trời rét quá thì cuộc khám xét buổi chiều vẫn thế, nhưng buổi sáng có đỡ ngặt hơn: tù nhân mở phanh áo trấn thủ và cứ để như thế mỗi lần có năm người bước tới cho năm tên giám thị lục soát. Chúng sờ nắn áo trấn thủ, vỗ vỗ vào túi trên đầu gối phía chân bên phải, chúng đi găng và hễ cứ sờ thấy cái gì lạ là không lôi ra ngay, mà lười biếng hỏi: “Cái gì thế này?” Buổi sáng thì tìm thấy gì trong người tù nhân cơ chứ? Dao ư? Nhưng dao thì người ta mang vào trại, chứ mang ra làm cái gì. Buổi sáng thường chúng khám xem tù nhân có mang nhiều đồ ăn hay không, ba ki lô gam chẳng hạn, để đào tẩu. Đã có hồi người ta quá lo lắng về cái khẩu phần 200 gam bánh mì bữa trưa, nên đã ra một cái lệnh như sau: mỗi đội phải tự đóng lấy một cái hòm gỗ để gom toàn bộ khẩu phần để vào trong đó. Chẳng hiểu cái sáng kiến ấy hay ho ra làm sao, nhưng tù nhân bị hành tới số: sợ ăn lẫn phần của nhau, nên trước khi ném suất của mình vào thùng ai cũng cắn một miếng để đánh dấu. Bánh thì miếng nào chả giống miếng nào, cùng cắt từ một cái bánh mì, ấy thế nhưng suốt dọc đường phạm ta lo lắng, khổ sở, chỉ nghĩ tới việc không biết suất của mình có bị đánh tráo không, rồi thì cãi cọ, thậm chí thỉnh thoảng còn choảng nhau nữa. Chỉ tới lúc xảy ra việc có ba phạm trốn trại trên một chiếc xe tải, ôm luôn cả hòm bánh mì theo, khi đó các thủ trưởng mới tỉnh ra, bắt đập hết các hòm đựng bánh, thôi thì cho chúng mày tự mang lấy suất của mình. Mọi chuyện lại y như cũ.
Buổi sáng cần phải khám xét xem phạm có mặc giấu thường phục bên trong hay không?
Khốn nỗi tất cả quần áo thường phục người ta đã tịch thu sạch từ lâu và hứa khi nào mãn hạn tù sẽ trả lại. Song ở cái trại này chưa từng một ai được mãn hạn cả.
Rồi họ còn khám xem phạm có giấu thư từ để nhờ người ngoài gửi đi hộ hay không. Nhưng nếu ai cũng bị lục soát thư thì có đến bữa trưa cũng không xong.
Nhưng Volkovoi gào tìm cái gì đó và những người giám thị vội vã tháo găng, bắt phạm cởi áo trấn thủ (mà phạm cất giấu được chút hơi nóng từ phòng giam mang đi), phanh áo trong.
Họ luồn tay vào bên trong, sờ nắn xem có ai mặc thêm đồ gì vi phạm quy chế hay không.
Các đội truyền cho nhau lệnh của Volkovoi bắt cởi hết, chỉ giữ lại trên người áo sơ mi và áo lót. Những đội đi trước đã gặp may, một số phạm đã lọt được ra ngoài cổng, những phạm còn lại phải mở hết ra, ai mặc thêm đồ phải cởi tuốt tuột ngay ngoài trời lạnh âm 27 độ! Họ bắt đầu thi hành lệnh, nhưng chẳng mấy chốc cổng trại bị ùn tắc, lính canh gào lên: “Ra đi! ra đi!”, và thay vì sự tức giận bị đổ lên đầu, đội 104 đã được hưởng ân huệ của Volkovoi:
ghi tên ai mặc thêm đồ, đến tối nộp lại kèm theo bản tường trình tại sao lại giấu và giấu bằng cách nào.
Mọi thứ trên người Sukhov đều là đồ phát cả, này, cứ việc nắn thoải mái, chả có quái gì.
Nhưng họ bắt được Sezar mặc một chiếc áo sơ mi bằng vải bông, còn Buinovski một chiếc áo len đan cộc tay. Ông trung tá vào tù chưa đầy ba tháng, vẫn còn thói quen chỉ huy trên tàu, la toáng lên:
- Các người không có quyền lột quần áo người ta giữa trời lạnh thế này! Các người không biết điều Chín trong bộ luật Hình sự!
Họ có quyền. Họ biết luật. Chỉ có cậu, ông bạn ạ, là chưa biết đó thôi.
- Các anh không phải người Xô Viết - Buinovski bồi thêm.
Về luật hình sự thì Volkovoi còn khả dĩ chịu được, chứ bảo hắn không phải người Xô Viết thì hắn chịu thế nào được. Viên sĩ quan điên tiết, mặt xám lại như đám mây dông, hắn giật giọng:
- Mười ngày biệt giam!
Rồi hắn nói nhỏ hơn với trưởng giám thị:
- Tối nay làm thủ tục.
Người ta không thích tống phạm vào nhà đá ban ngày, vì như vậy sẽ lãng phí ngày công. Cứ để cho hắn xụm lưng cả ngày, ban đêm quẳng vào xà lim cũng chưa muộn.
Khu trừng giới ở ngay gần đấy, về phía bên trái sân trại, được xây bằng đá có hai chái. chái thứ hai mới xây xong dạo mùa thu - một chái không đủ chỗ giam phạm. Nhà giam chia thành mười tám khối, mỗi khối gồm những xà lim để nhốt riêng phạm. Tất cả các nhà khác trong trại đều làm bằng gỗ, riêng khu biệt giam được xây bằng đá.
Cái lạnh đã ngấm vào dưới lần áo sơ mi tù, bây giờ thì không đẩy nó ra được nữa. Thật phí thời gian quấn quấn, buộc buộc. Sukhov lại thấy đau lan dọc sống lưng. Giá bây giờ được ngả lưng trên giường bệnh viện mà ngủ nhỉ. Thật chả còn muốn gì hơn. Được đắp một chiếc chăn dầy dầy vào thì còn gì bằng.
Tù nhân đứng trước cổng cài lại sống áo, lại quấn quấn buộc buộc, còn bọn lính canh đang đợi họ ở bên ngoài thì cứ gào lên:
- Ra mau, ra mau!
Người kiểm soát nhân công thúc vào lưng:
- Khẩn trương, khẩn trương!
Toàn những cổng là cổng. Lớp cổng đầu liền sát với vành đai trại, tiếp đến lớp cổng thứ hai.
Cả hai phía gần trạm gác đều có chấn song sắt.
- Đứng lại! - một tên lính hô to, - xếp hàng giống như đàn cừu, năm người một.
Trời đã tang tảng. Đống lửa đằng sau trạm gác đã gần tàn. Lính canh bao giờ cũng đốt một đống lửa trước giờ điểm danh để sưởi cho ấm và cũng để lấy ánh sáng mà đếm tù.
Một tên lính canh đếm rõ to, giọng chát chúa:
- Một, hai, ba!..
Mỗi nhóm gồm năm người tách ra riêng biệt, xếp hàng đi qua, cho nên nhìn họ từ phía nào, bất kể đằng trước hay đằng sau, đều thấy năm cái đầu, năm cái lưng và mười cái chân.
Tên lính thứ hai làm nhiệm vụ kiểm soát viên, đứng bên chấn song sắt im lặng kiểm tra xem đếm có đúng không.
Cả viên trung uý cũng đứng đó, chăm chú theo dõi.
Đó là việc của trại.
Đối với lính canh, tù nhân còn quý hơn vàng. Để thiếu một thằng tù ở bên kia rào thép gai, thì phải đem cái mạng của mình mà thế vào. Cả đội lại tập hợp một lần nữa.
Lúc này đến lượt trung sĩ đội áp tải đếm tù:
- Nhóm thứ nhất! nhóm hai! nhóm ba!
Và lại một lần nữa tù nhân xếp thành từng khối năm người một như những mắt xích riêng rẽ của một sợi dây xích.
Trợ lý đội trưởng đội cảnh giới kiểm tra phía bên kia đoàn tù.
Thêm cả viên trung uý nữa.
Đó là việc của đội áp tải.
Không được nhầm lẫn. Nếu kí nhận thừa một tù, thì cũng phải lấy mạng mình mà thế vào.
Lính áp tải nhan nhản. Họ bọc lấy đoàn tù theo hình vòng cung, súng tiểu liên chĩa thẳng vào mặt phạm. Rồi có cả lính dắt theo chó nghiệp vụ lông xám. Có một con nhe răng nhọn hoắt như đang chế nhạo đám tù nhân. Tất cả lính áp tải đều mặc áo da lộn ngắn, chỉ có sáu người mặc áo lông dài. Họ thay nhau mặc áo lông dài khi nào đứng canh ở trên chòi cao.
Tù nhân lại xếp hàng lại một lần nữa và lính áp tải đếm từng nhóm năm người một.
- Lạnh nhất bao giờ cũng là lúc rạng đông, - ông trung tá hải quân giải thích, - vì đó là điểm cuối cùng của sự mất nhiệt lượng do bức xạ xảy ra vào ban đêm.
Ông trung tá cắt nghĩa mọi sự. Ông có thể tính được tất cả các tuần trăng - trăng non hay trăng già, trong bất cứ năm nào, ngày nào. Ông xuống mã trông thấy, song nom vẫn còn tươi tỉnh.
Băng giá cộng với gió thổi vù vù ở bên ngoài trại khiến da mặt đã chai sạn của Sukhov như có hàng ngàn mũi kim châm. Anh biết sẽ bị gió thốc vào mặt như vậy suốt trên đường đi tới công trường xây nhà máy điện, nên đã quấn kĩ mặt bằng một miếng giẻ với hai giải dài khâu hai bên. Tất cả các phạm đều thừa nhận miếng giẻ rất có ích. Sukhov quấn nó kín mặt, lên tận mắt, kéo hai giải ra đằng sau, phía dưới tai và buộc lại ở sau gáy. Rồi anh kéo vạt mũ che gáy, nâng cổ áo bông lên, kéo vạt mũ đằng trước xuống che trán. Như vậy tất cả mặt anh kín hết, chỉ còn hở mỗi đôi mắt. Anh buộc chặt ngang bụng áo bông bằng một sợi giây thừng.
Thế cũng tạm ổn, chỉ có điều đôi găng tay mỏng và đã cũ, nên hai bàn tay bị lạnh cóng. Anh xoa xoa, vỗ vỗ hai bàn tay vào nhau và biết rằng chỉ lát nữa anh sẽ phải bẻ quặt chúng ra sau lưng và cứ giữ như thế suốt trên đường đi.
Viên chỉ huy đội lính áp tải đọc “kinh nhật tụng” chán ngấy của trại :
- Các tù nhân chú ý! Trên đường đi phải triệt để giữ đúng hàng lối! không được giãn ra, không được chạy vượt lên, không tự động thay đổi nhóm năm người. Không được nói chuyện, ngó sang hai bên và hai tay phải để ra sau lưng! Bước sang phải hay sang trái một bước sẽ bị coi là mưu toan đào tẩu và lính áp giải sẽ nổ súng không cần báo trước! Chuẩn bị, bước đều, bước!
Và tất nhiên dẫn đầu đoàn tù phải là hai lính áp tải. Đoàn tù chuyển động về phía trước, vai tù nghiêng ngả. Lính áp tải đi hai bên, cách đoàn tù hai chục bước hàng ngang, cách nhau một chục bước hàng dọc, súng tiểu liên sẵn sàng nhả đạn.
Một tuần rồi tuyết không rơi, con đường bị dẫm nát, trông thật tang thương. Đoàn tù đi vòng theo trại giam, gió thổi thốc vào mặt mũi. Hai tay vòng ra sau lưng, đầu cúi xuống, trông như đoàn người đang đi đưa đám. Chẳng còn thấy gì ngoài ống chân của mấy phạm đi đầu và khoảng đất bị dẫm nát mà những zãcbàn chân vẫn tiếp tục đạp lên. Cứ chốc một lính áp tải lại quát lên: “U-48! để tay sau lưng!”, “B - 502, đi vào hàng!”. Về sau tiếng quát thưa dần: gió quất vào mặt khiến mắt trở nên khó nhìn, hơn nữa, lính lại không được phép bịt mặt như phạm. Một công việc cũng chẳng thú vị gì...
Khi nào trời ấm, trong đoàn tiếng nói chuyện nổi lên dù lính áp tải có quát tháo mấy cũng mặc. Nhưng hôm nay ai cũng cắm đầu bước, cố giấu mình vào lưng người đằng trước và chìm trong những ý nghĩ của mình.
Ý nghĩ của tù nhân cũng không được tự do mà cứ quay về một chỗ: liệu chúng có sờ thấy khẩu phần bánh mì mình giấu trong đệm hay không? Tối nay liệu chúng có cho mình vào danh sách người bệnh không? Liệu ông trung tá có bị tống vào nhà đá không? Sezar lấy đâu ra chiếc sơ mi ấm đó? Chắc lại đổi chác đồ của mình lấy nó ở nhà kho, chứ còn ở đâu ra nữa?
Hôm nay Sukhov vẫn thấy đói, có lẽ vì anh ăn sáng không có bánh mì, và ăn toàn đồ lạnh chăng. Và để cái bụng khỏi rên rỉ đòi ăn, anh thôi không nghĩ tới trại giam nữa, mà nghĩ tới bức thư sắp tới sẽ gửi về nhà.
Đoàn người đi qua xưởng làm đồ mộc do tù nhân dựng lên, qua khu nhà ở (cũng do tù nhân xây dựng, song lại dành cho người tự do ở), qua câu lạc bộ mới (cũng do tù làm hết, từ đổ móng đến trang trí trên tường, nhưng phim chiếu lại để cho người tự do xem), bước ra ngoài thảo nguyên, đối diện với gió và bình minh mỗi lúc một đỏ rực. Cả một vùng tuyết trắng mênh mông, trơ trọi, không có lấy một cái cây.
Một năm mới bắt đầu, năm năm mốt, và ở năm này Sukhov được phép viết hai thư. Bức cuối cùng anh gửi vào tháng bẩy, nhưng thư trả lời mới nhận được hồi tháng mười vừa rồi. Còn trại Ust-Izma, nơi anh bị giam trước đây, lại có quy chế khác, nếu muốn, mỗi tháng có thể viết một lần. Nhưng có quái gì để mà viết cơ chứ? Khi đó Sukhov cũng không viết thường xuyên hơn bây giờ.
Anh rời nhà vào ngày hai mươi ba tháng sáu năm bốn mươi mốt. Vào một sáng chủ nhật, mọi người đi lễ nhà thờ ở Polomi về thông báo rằng chiến tranh đã nổ ra rồi. Ở Polomi mọi người biết tin qua bưu điện, chứ ở làng Temgenuva của anh, trước chiến tranh, chả ai có lấy nổi một chiếc máy thu thanh. Bây giờ người ta viết thư khoe rằng hiện nhà nào cũng có một cái radio galen quấn giây.
Viết thư lúc này chẳng khác gì ném sỏi xuống cái hố sâu không đáy. Sỏi rơi mất tăm, không một tiếng động vẳng lại. Chả ai đi kể mình làm ở đội nào, tay đội trưởng Andrei Prokofiev Turin là người ra làm sao. Bây giờ với tay Kildigs người Latvi xem ra mình còn chia xẻ nhiều hơn là với người nhà.
Vả lại người nhà anh cũng chỉ viết thư hai lần trong năm. Cuộc sống của họ mình cũng chẳng thể hiểu nổi. Nghe bảo chỗ họ mỗi năm lại thay chủ tịch nông trang mới, cấm ông nào trụ được lấy hơn năm. Nông trang đã được sát nhập rồi. Thì trước đây nó cũng đã từng được hợp nhất, sau lại tách ra, có gì là mới đâu. Lại thấy bảo ai không đạt định mức đề ra, thì phải cắt đất vườn có đến một phần tư, nhiều người bị cắt tới sát nhà. Có hồi vợ anh còn kể rằng người ta đề ra luật, người nào không làm đủ định mức sẽ bị xét xử và bị đi tù. Nhưng cái luật này sau cũng bị bãi bỏ.
Có một điều Sukhov không làm sao hiểu nổi, vợ anh viết rằng, ngay sau chiến tranh cấm có lấy một mống nào trở về nông trang: lớp trẻ, tất cả mọi đứa, đều tìm cách nhảy ra ngoài tỉnh hết, vào làm trong nhà máy hay trong các mỏ than bùn. Nửa số đàn ông đã không quay về sau chiến tranh, mà có ai quay được về, thì cũng không làm ở nông trang nữa: họ sống ở nhà, song kiếm tiền ở nơi khác. Đàn ông trong nông trang còn lại mỗi đội trưởng Zakhar Vasilich Tikhon - lão thợ mộc già năm nay đã tám mươi tư, vừa lấy vợ và đã có con rồi. Mọi công việc nông trang do một tay các bà đảm đương, những người buộc phải gánh vác công việc từ hồi những năm ba mươi. Họ mà đổ thì nông trang cũng chết.
Đấy, cái điều mà Sukhov không sao hiểu nổi là tại sao sống ở quê mình mà lại đi làm ở chốn khác. Anh cũng đã từng thấy sự thể ra sao cả trong nông trại tư nhân, lẫn nông trang tập thể, song việc đàn ông không làm việc tại làng xã mình, thì anh chịu không hiểu được. Hay là họ làm thêm các nghề khác? Vậy việc phát cỏ thì làm thế nào? Trong thư vợ anh viết rằng các nghề phụ đã bị bỏ từ lâu rồi. Người ta thôi không làm mộc, một nghề mà nhờ nó làng anh một thời nổi tiếng, không đan giỏ bằng nhành miên liễu. Bây giờ chả ai người ta thèm làm mấy thứ đó. Bây giờ có một nghề mới, nhẹ nhàng, vui vẻ - nghề vẽ thảm. Chả biết có một người nào đó từ chiến trường mang về một cái khuôn, thế là từ đó ngày càng nhiều người học làm cái nghề này. Việc nông trang họ chẳng màng đến, cả năm độc có một tháng là họ ra đồng gặt lúa và phát cỏ, còn mười một tháng nông trang cấp giấy chứng nhận nông trang viên này nọ được nghỉ để làm việc riêng, thuế má đã nộp đầy đủ. Và rồi họ đi khắp nước, thậm chí còn đi cả máy bay để tiết kiệm thời gian, còn tiền thì kiếm được hàng nghìn rúp, thảm vẽ khắp mọi xó xỉnh: cứ năm mươi rúp một tấm thảm vẽ trên vải trải giường cũ, bất cứ loại nào người ta cũng không thấy xót ruột bỏ ra để thuê vẽ. Mà vẽ kiểu thảm này chỉ chừng một tiếng đồng hồ là xong, không hơn. Trong thâm tâm vợ anh rất hi vọng khi nào Ivan trở về anh chẳng cần phải làm ở nông trang làm gì cho nhọc xác, cứ học lấy cái nghề này. Lúc đó gia đình anh sẽ thoát khỏi cảnh nghèo mà hiện vợ anh đang phải vật lộn, con cái thì cho đi học kĩ thuật, dỡ cái nhà nát hiện nay, dựng cái mới. Cánh thợ vẽ thảm đều đã làm được nhà mới, mà nhà ở gần đường xe lửa bây giờ là hai mươi nhăm nghìn rúp, chứ chẳng phải năm nghìn rúp như ngày xưa đâu nhé.
Phần 2
Sukhov còn lâu mới hết hạn tù - đông này qua đông khác, hè nọ sang hè kia, nhưng những tấm thảm đó vẫn làm anh mệt óc không ít. Một công việc thật thích hợp với anh, nếu như anh mang án và mất quyền công dân, chẳng đâu người ta nhận, mà cũng không được phép về lại làng nữa. Khi ấy anh viết thư hỏi vợ, liệu anh có thể trở thành thợ vẽ thảm được không, khi chẳng có lấy một tí khiếu vẽ nào? Mà thảm ấy là loại gì mà xôm vậy, vẽ bằng gì và vẽ cái gì trên đó? Vợ anh trả lời rằng chỉ có những thằng đần thối mới không vẽ được thôi: chỉ việc đặt khuôn lên vải, rồi lấy bút lông chấm chấm sơn vào những cái lỗ nhỏ trên đó. Thảm có ba loại. Loại thứ nhất là loại “Tam mã” - vẽ một cỗ xe đẹp ba ngựa kéo, cầm cương là một sĩ quan kị mã. Loại thứ hai vẽ tranh con hươu. Loại ba - mô phỏng thảm Ba Tư. Chả còn loại nào khác, nhưng thế cũng đủ làm thiên hạ lóa mắt, tranh cướp nhau, làm không kịp bán. Là bởi vì thảm thật không phải năm mươi, mà hàng nghìn rúp.
Sukhov ước giá được nhìn qua mấy bức thảm đó...
Thời gian ở tù Sukhov đã đánh mất thói quen lo lắng, sắp đặt công việc cho ngày mai, cho năm sau và nghĩ cách kiếm tiền để nuôi gia đình. Tất cả mọi việc đã có mấy ông cấp trên nghĩ hộ anh, xem ra thì nhẹ cho mình thật đấy, nhưng lúc ra tù thì làm sao đây?...
Từ những câu chuyện của cánh lái xe và lái máy xúc - dân tự do, Sukhov biết rằng lối đi thẳng đã bị chặn lại, nhưng con người không chịu bó tay: họ đi đường vòng và bằng cách đó họ vẫn sống.
Giá ở ngoài ấy thì Sukhov cũng có thể thử cách đi vòng này: kiếm tiền ngon lành, lại chắc ăn. Thua kém những người cùng làng kể cũng xấu hổ thật... song, trong thâm tâm Sukhov không thấy khóai ba cái vụ thảm thiếc này cho lắm. Muốn làm phải mặt dày mày dạn, phải lo lót đủ kiểu, phải láu tôm láu cá và chạy chọt công an. Sukhov sống ở trên đời đã bốn mươi năm, đã mất nửa hàm răng và đầu bắt đầu hói, anh chưa bao giờ hối lộ và chưa từng nhận hối lộ của ai, bao nhiêu năm trong trại anh cũng không học được cái trò đó.
Đồng tiền kiếm được dễ dàng nào có ra cái gì, nó đâu cho mình cái cảm giác làm ra được.
Các cụ nói chí lí thật: cái gì không phải trả giá, cái đó không giữ được bền. Chân tay Sukhov còn khoẻ, chẳng lẽ khi nào về nhà anh lại không kiếm được một công việc đàng hoàng hay sao. Làm bếp lò chẳng hạn, hay quay lại nghề thợ nề, hay hàn nồi hàn xoong gì đó.
Nhưng liệu mình có được thả đúng thời hạn không? Liệu có bị ấn thêm chục năm nữa hay không? Với lại được thả ra rồi mà vẫn bị tước quyền công dân, không được sống trong làng, xin việc đâu cũng không được nhận, thì lại đến phải làm ba cái đồ thảm rởm đó mất thôi...
Đoàn người đã tới nơi và dừng lại trước trạm gác của một công trường rộng lớn đang xây cất. Trước đó, từ một góc công trường, hai lính áp tải mặc áo khoác ngắn da lộn đã tách ra, đi tới chòi gác ở phía xa. Đám tù chưa được phép vào phía trong, chừng nào lính canh chưa lên được hết các chòi gác. Viên sĩ quan phụ trách, vai đeo tiểu liên đi tới trạm gác. Từ trong ống khói lò sưởi của trạm gác, khói vẫn cuồn cuộn bốc lên: lính gác công trường cả đêm ngồi trong đó canh chừng ván và xi măng khỏi bị mất cắp.
Một mặt trời to tướng, đỏ ối, như được bọc trong sương mù, chiếu ánh sáng xuyên qua những hàng dây thép gai trên cổng, trải khắp công trường, tới tận hàng rào dây thép gai phía xa. Đứng cạnh Sukhov là anh chàng Tẩy lễ Aliosa nụ cười rạng rỡ trên môi, đang nhìn mặt trời và lấy làm sung sướng lắm. Hai má hắn hóp lại, sống chỉ nhờ vào khẩu phần hàng ngày, chả kiếm chác được gì thêm, không hiểu hắn sung sướng cái nỗi gì nhỉ? Vào các ngày chủ nhật, tối ngày hắn thì thầm chuyện trò với mấy tín đồ Tẩy lễ khác, đời sống trong trại chả làm cho họ bận tâm, chẳng khác gì nước đổ đầu vịt. Đã hai mươi nhăm năm nay người ta quần thảo họ vì cái đạo Tẩy lễ ấy, chẳng lẽ người ta lại tin rằng đám người này vì thế mà bỏ đạo của mình?
Miếng giẻ quấn mặt Sukhov đã ướt hết cả vì hơi thở của anh trên đường đi và nhiều chỗ đã đóng băng cứng lại. Sukhov cởi nó ra khỏi mặt, tụt xuống cổ và đứng quay lưng lại hướng gió. Trên người anh không có chỗ nào băng giá có thể xuyên vào được, chỉ có hai tay bị tê cóng vì đôi găng mỏng quá, mấy ngón chân thì cứng lại, vì bên ủng trái có một cái lỗ bị cháy lúc sấy, hôm nào phải khâu lại mới được. Thắt lưng và cả vùng lưng đau nhức, lan đến tận vai, làm việc như thế nào đây? Anh nhìn quanh, chợt thấy bóng đội trưởng đứng ở hàng cuối. Hắn có đôi vai vạm vỡ và khuôn mặt to lớn. Hắn đứng đó, mặt mũi xầm xì. Hắn rất ghét những trò tếu táo, nghịch ngợm trong đội của mình, song được cái hắn nuôi anh em khá, lúc nào cũng tìm mọi cách lo cho anh em khẩu phần dồi dào. Hắn bị kéo dài thêm một hạn tù nữa, con đẻ của GULAG, đời sống trong trại hắn thuộc như lòng bàn tay.
Trong trại nào cũng thế, đội trưởng là tất cả: gặp được tay đội trưởng khá, anh như được tái sinh lần nữa, còn gặp phải thằng tồi, đời anh coi như tàn. Sukhov quen Turin từ thời còn ở Ust - Izma, có điều hai người không ở cùng một đội. Sau này các tù nhân bị kết án theo Điều 58(5), bị chuyển từ trại thường ở Ust - Izma sang trại khổ sai thì Turin đã chọn Sukhov vào đội của mình. Sukhov chẳng bao giờ tiếp xúc với trại trưởng, hay BCHSX, với các giám công hay các kĩ sư, đã có Turin lo cho tất cả, hắn chạy như con thoi. Nhưng mà liệu đấy, hắn chỉ cần nhướng lông mày, hay chỉ ngón tay là phải chạy ngay đi mà làm. Có thể lừa bất cứ ai trong trại, nhưng chớ có lừa Turin. Có thế mới sống được.
Sukhov những muốn hỏi Turin xem có làm việc ở chỗ hôm qua không, hay chuyển sang chỗ khác, song anh không dám cắt ngang dòng suy nghĩ quan trọng của hắn. Hắn chỉ vừa mới tháo gỡ được gánh nặng của cái Khu dịch xã trên vai, giờ chắc đang tính kế làm sao giành được khẩu phần khơ khớ đây. Suất ăn của anh em trong đội năm ngày tới phụ thuộc cả vào việc này.
Mặt đội trưởng chằng chịt vết rỗ hoa, hậu quả của bệnh đậu mùa. Hắn đứng trực diện với hướng gió, vậy mà cấm thấy nhăn nhó, da mặt hắn cứng như vỏ cây sồi.
Các phạm đứng túm tụm, đập hai tay vào nhau, dậm dậm chân trên tuyết cho ấm người. Gió ác nghiệt - như thể cả bốn phương tám hướng đều có thần gió thổi tới. Người ta vẫn chưa cho tù vào bên trong. Để nâng cao cảnh giác, phải làm tình làm tội họ tới số.
Cuối cùng thì viên sĩ quan phụ trách cùng với tay cán bộ kiểm tra cũng bước ra khỏi trạm gác, họ đứng mỗi người một bên và mở cổng.
- Tập họp theo nhóm năm người! một! hai!
Đoàn tù bước như đi diễu hành, có điều chân bước không được đều lắm. Một khi vào được bên trong công trường rồi, thì chẳng cần phải bảo, ai nấy đều biết việc của mình.
Qua khỏi trạm gác một chút là đến văn phòng. Tay giám công đang đứng cạnh đó, cất tiếng gọi các đội trưởng tới. Mà cũng chẳng cần phải gọi, tự họ phải chạy đến hắn. Cả Der - một trong mấy thằng quản công lấy từ đám tù nhân lên - cũng chạy đến. Đó là một thẳng đại khốn nạn, cùng bạn tù với nhau mà nó đối xử với anh em còn tệ hơn chó.
Tám giờ năm phút (cái máy hơi nước dùng để phát điện vừa mới huýt lên một tiếng), các sếp cuống cả lên, sợ tù nhân lãng phí thời gian, lại rúc vào lều tạm nào đó để sưởi. Nhưng tù nhân có cả một ngày dài, họ có đủ thời giờ làm mọi việc. Vừa mới tới chỗ làm, lập tức họ cúi xuống nhặt nhạnh các mẩu gỗ, que củi, tất cả những gì dùng được cho cái lò sưởi ở trại nhà.
Turin ra lệnh cho tay phụ tá Pavlo đi theo mình lên văn phòng. Sezar cũng được gọi theo.
Sezar giàu có, tháng hai lần nhận được đồ tiếp tế. Hắn đút cho tất cả những ai cần phải đút lót, nên được phân công làm việc nhẹ trong văn phòng, giúp việc cho người phụ trách bộ phận chỉ tiêu.
Những phạm còn lại của đội 104 tản nhanh về một phía.
Mặt trời đỏ ối bọc trong sương mù lên cao trên công trường hoang vắng, những tấm ván của các ngôi nhà lắp ghép phủ đầy tuyết, một mảng tường móng bằng đá xây bỏ dở, ở đó cần lái của một chiếc máy xúc bị gãy, cái gầu xúc, những phế liệu sắt thép, nằm lăn lóc, nào rãnh, nào mương, nào hố đào dở bừa bãi. Các xưởng sửa chữa máy móc, xe cộ đã làm xong, trừ phần mái. Nhà máy điện ở trên một khu đồi cao đang bắt đầu xây lên tầng thứ hai, cũng không mái.
Mọi người đều đã tản đi hết, ngoại trừ sáu người lính trên các tháp canh và những người bận rộn ra vào văn phòng. Đó chính là thời điểm cánh tù được hưởng chút thời gian cho mình! Nghe nói, tay đốc công đã bao lần doạ sẽ phát mệnh lệnh phân phối công việc cho các đội từ chiều hôm trước. Song điều đó mãi vẫn chưa làm được, bởi vì từ chiều hôm trước cho tới sáng hôm sau mọi thứ ở chỗ họ cứ lộn tùng phèo cả lên.
Thế cho nên ta được hưởng giây phút này, nó là thời gian của ta! Trong khi các sếp còn bận rộn tính toán công việc, thì hãy chen vào những chỗ có thể sưởi ấm hơn, hãy ngồi xuống, ngồi xuống mà nghỉ trước khi làm quần quật gẫy cả lưng. Nếu mà được ngồi cạnh lò sưởi thì chả còn gì bằng - có thể tháo vải quấn chân hơ lên lửa một chút, như thế suốt cả ngày chân sẽ được giữ ấm. Mà không được gần lò sưởi, vẫn cứ tốt chán.
Đội 104 đi vào gian nhà lớn của xưởng sửa chữa xe đã được lắp các cửa kính từ mùa thu và đội 38 đang đổ các khối xi măng. Một số khối xi măng còn trong khuôn nằm ngổn ngang, một số đã được dựng lên, ở đó cốt thép làm từ những tấm lưới. Mái thì cao, sàn thì vẫn là nền đất, nên ở đó chẳng bao giờ thực sự ấm cả, có điều người ta đốt lò cho gian nhà này và không hề hà tiện than, chẳng phải để sưởi ấm cho đám tù, mà để cho các khối bê tông chóng khô. Trong nhà còn treo cả hàn thử biểu nữa. Vào các ngày chủ nhật tù nhân vì lí do gì đó mà không phải làm việc, thì có một công nhân tự do(6) vẫn đốt lò và canh ở đó lo cho lửa cháy đều.
Tất nhiên, đám phạm trong đội 38 ôm chịt lấy cái lò, hơ hơ, sấy sấy và không cho người ngoài đội tiến lại gần. Đếch cần, bọn ta ngồi vào góc này vậy, ấm chán.
Sukhov đặt đít quần bông đã ngồi lê la khắp chốn lên cái khuôn bằng gỗ, lưng dựa vào tường. Khi anh cúi xuống, cái áo bông mặc ngoài và áo trấn thủ bị kéo căng ra, anh cảm thấy phía ngực trái, gần tim, có cái gì đó cưng cứng cộm lên. Thì ra là khúc bánh mì, nửa xuất ăn sáng mà anh giấu vào cái túi khâu trong áo, để dành cho bữa trưa. Bao giờ anh cũng mang theo ngần ấy và không khi nào đụng tới trước bữa trưa. Nhưng những lần ấy anh đều ăn một nửa xuất vào bữa sáng, còn sáng nay anh không kịp ăn. Và Sukhov hiểu rằng anh chẳng thể để dành được lâu hơn, anh phải ăn ngay ở chỗ ấm áp này, từ giờ tới bữa trưa còn những năm tiếng, chịu sao thấu.
Cái nhức nhối trên lưng anh giờ chuyển xuống hai chân, khiến chúng rệu rã, mỏi nhừ. Ước gì đến được gần cái lò!..
Sukhov tháo đôi bao tay đặt lên đùi, mở khuy áo bông, tháo miếng giẻ quấn mặt ở cổ ra, bẻ nát lớp nước đá đóng phía ngoài để gấp nó lại rồi nhét vào túi. Sau đó anh lôi khúc bánh mì bọc trong miếng giẻ màu trắng, rồi bắt đầu gặm ít một. Anh hứng bánh trên vạt áo bông để những vụn nhỏ khỏi rơi xuống đất. Bánh được bọc những hai lớp vải, lại được sưởi bằng chính cơ thể anh, nên nó hoàn toàn không bị lạnh cứng.
Ở trong các trại giam Sukhov thường hay nhớ tới những bữa ăn ở nhà trước đây: khoai tây hàng chảo đầy, cháo hàng nồi gang lớn, còn trước đó nữa, khi chưa có nông trang, thịt thái toàn miếng to. Còn sữa thì mặc sức, uống đến vỡ bụng thì thôi. Nhưng có nằm trong trại rồi thì anh mới hiểu ăn uống kiểu đó là sai lầm. Khi ăn phải để hết tâm trí vào đồ ăn, như bây giờ chẳng hạn, anh nhấm nháp từng miếng bánh nhỏ, đảo nó lên lưỡi, rồi đảo đi đảo lại trong miệng - lúc đó mới thấy cái bánh mì đen này thơm, ngon làm sao. Sukhov được ăn gì trong tám, chín năm vừa qua? Chẳng có gì. Vậy có bao nhiêu công lao, sức lực anh đã phải bỏ ra? Ô-hô!
Trong khi Sukhov bận rộn với hai trăm gram bánh mì của mình, thì cạnh anh, toàn đội 104 đang ngồi xúm xít trong một góc xưởng.
Hai anh chàng người Estoni, như hai anh em ruột, ngồi trên một khối bê tông thấp và thay phiên nhau hút nửa điếu thuốc lá cắm vào một cái tẩu. Cả hai người đều có tóc màu trắng, cả hai cùng cao, gầy, mũi dài và mắt to. Hai người quấn quýt nhau tới nỗi có cảm giác nếu thiếu nhau họ sẽ không sống được. Đội trưởng không khi nào tách họ ra. Họ chia nhau đồ ăn, ngủ chung một giường ở tầng trên, và khi đi trong hàng hay lúc điểm danh, cũng như trên giường ngủ, lúc nào họ cũng thì thầm, nhẩn nha trò chuyện. Thế nhưng họ đâu phải anh em ruột, mà chỉ mới quen nhau trong đội 104 này. Họ kể, một người trước đây là dân thuyền chài đánh cá ở ven biển, còn người kia, khi nhà nước Xô Viết thành lập thì đang còn nhỏ, được bố mẹ đưa sang Thuỵ Điển. Khi lớn anh ta tự ý quay về để tốt nghiệp đại học. Thế là bị bắt liền.
Người ta bảo rằng sắc tộc chẳng đóng vai trò gì, đâu cũng có người xấu, người tốt, thế nhưng trong tất cả những người Estoni mà Sukhov đã gặp, anh chưa thấy người xấu bao giờ.
Tù nhân vẫn ngồi la liệt trên các tấm ván, hoặc trên các khuôn đổ blốc bê tông, hay bệt thẳng xuống đất. Mới sáng ngày ra chẳng ai muốn nói chuyện, người nào cũng trầm ngâm với những ý nghĩ riêng của mình. Fechiukov-chó lang nhặt đâu được cả một đống mẩu thuốc (nó còn nhặt cả đầu mẩu thuốc từ trong ống nhổ, mặt mũi tỉnh bơ), để lên đùi và đang ngồi soạn. Những mẩu thuốc nào chưa cháy hết hắn gói tất cả vào một miếng giấy. Fechiukov có ba con, song không một đứa nào nhận bố khi hắn bị bắt, vợ thì bỏ đi lấy chồng, vì thế chẳng còn ai tiếp tế cho hắn.
Ông trung tá Buinovski nhìn Fechiukov chằm chằm rồi bất chợt la lên:
- Nhặt mấy thứ rác rưởi đó làm gì hả, muốn lây đủ mọi bệnh phải không? Trùng giang mai đang ngốn sạch môi cậu rồi kìa, vất đi!
Là trung tá hải quân, Buinovski đã quen ra lệnh. Với ai ông cũng nói bằng giọng đó.
Nhưng Fechiukov có coi trung tá ra cái gì. Trung tá thật đấy nhưng cũng cóc có đồ tiếp tế gửi đến.
Khẽ há cái miệng còn nửa răng ra cười khẩy, hắn nói với ông ta:
- Cứ đợi đấy, ngài trung tá ạ, cứ ngồi tám năm, rồi ông sẽ thấy, tới lúc đó ông cũng sẽ làm như tôi thôi.
Điều đó là đúng, cái tự trọng của ông trung tá mọi người trong trại đều đã trải qua.
- Cái gì? Cái gì? - Anh chàng Senka Klevsin nghễnh ngãng, không nghe rõ, tưởng mọi người nhắc lại vụ ông trung tá bị lôi thôi lúc điểm danh. - Đáng ra ông đừng có gây với chúng làm gì! - anh lắc đầu quầy quậy, - thì mọi chuyện may qua được.
Senka Klevsin thật đáng thương. Anh là người trầm tĩnh, ít nói, hồi bốn mốt anh bị sức ép bom, một bên màng nhĩ bị thủng. Sau đó bị bắt làm tù binh, chạy trốn ba lần, chúng bắt được dần cho thừa sống thiếu chết rồi nhốt vào Buchenvald. Nhờ phép lạ anh thoát chết ở Buchenvald, song lại âm thầm ngồi tù ở đây. Anh bảo nếu cứ làm ầm lên khéo mà đi tong.
Đúng vậy, chỉ còn mỗi nước là làm việc quần quật, làm thật lực. Nếu chống lại - sẽ bị bẻ gẫy ngay lập tức.
Aliosa úp mặt vào lòng bàn tay, im lặng. Anh đang cầu nguyện.
Sukhov không ăn hết phần bánh mì, anh để lại miếng cùi đầu mỏm bánh. Là bởi không có một chiếc thìa nào có thể vét sạch cháo trong bát bằng bánh mì cả. Miếng cùi bánh anh gói lại vào miếng giẻ trắng để giành đến bữa trưa, đút vào chiếc túi may phía trong áo trấn thủ, đóng cúc áo lại cho khỏi lạnh, bây giờ thì muốn gọi đi làm lúc nào thì gọi. Nhưng giá họ thư thư cho một lúc nữa thì tốt quá.
Đội 38 đã đứng dậy. Một số người đi tới chỗ máy trộn bê tông, một số đi lấy nước, số còn lại đi lấy lưới sắt để làm cốt bê tông.
Nhưng chưa thấy đội trưởng Turin và cả Pavlo, người giúp việc của anh ta, quay về đội. Và mặc dầu đội 104 mới ngồi chưa đầy 20 phút, còn ngày làm việc - một ngày mùa đông ngắn ngủi - kéo dài chỉ đến sáu giờ chiều, nhưng mọi người đều thấy quá may mắn và buổi tối dường như chẳng còn lâu la gì.
- Lâu lắm rồi chẳng thấy bão tuyết gì cả, - anh chàng Kildigs, người Latvi, béo tốt, má đỏ au, thở dài nói. - Cả mùa đông chẳng có lấy một trận bão nào! Mùa đông gì mà lại thế hở?!
- Ờ... bão tuyết... bão tuyết, - tiếng thở dài truyền đi khắp đội.
Khi bão tuyết ở vùng này nổi lên thì không chỉ phạm được nghỉ việc, mà ngay đến việc để họ ra ngoài cũng sợ: từ trại đến nhà ăn nếu không lần theo sợi giây buộc thì lạc ngay. Nếu có tù nhân chết cóng trong tuyết, thì dù chó có đến ăn cũng mặc. Nhưng ngộ ngỡ hắn đào tẩu thì sao? Cũng đã từng xảy ra những trường hợp như vậy. Khi có bão tuyết thì tuyết rơi rất mỏng, nhưng đóng lại thành đống chắc nịch như thể được nện chặt. Trượt theo những đống tuyết này mấy phạm nhà ta vượt qua hàng rào giây thép gai, thoát được ra ngoài, song cũng chẳng đi được bao xa.
Xét cho cùng bão tuyết chẳng được cái tích sự gì: tù nhân suốt ngày ngồi trong nhà, than chở đến chậm, hơi ấm tuồn ráo ra ngoài. Không có ai chở được bột mì đến trại, thành thử chẳng có bánh mì mà ăn, ở bếp cũng chẳng có gì mà nấu nướng. Và bất kể bão có kéo dài đến bao giờ - một, hai ngày hay cả tuần lễ, thì người ta vẫn tính đó là những ngày phạm được nghỉ và họ phải đi làm bù vào những ngày chủ nhật sau đó.
Nhưng có thế nào thì tù nhân vẫn cứ thích bão tuyết và cầu trời khấn phật cho bão đổ. Chỉ cần gió thổi mạnh một tí là y như rằng ngóng tất cả lên trời, cầu khẩn: Lạy trời cho chúng con thứ của cải ấy đi! Của cải đây là tuyết. Là vì ở đây chưa từng có bão tuyết thực sự.
Có ai đó chen vào đội 38 để tới gần lò sưởi. Lập tức anh ta bị đẩy bật ra ngoài. Cũng đúng lúc đó Turin bước vào, mặt mũi ỉu xìu. Toàn đội hiểu rằng sẽ phải làm một việc gì đó, và phải làm ngay.
- N-à-o, - Turin nhìn quanh, - 104 có cả ở đây không đấy?
Và chẳng cần phải kiểm tra, chẳng cần phải đếm lại, bởi vì ở đội của Turin không ai có thể đi đâu được, hắn nhanh chóng phân công công việc. Hắn phái cặp Estoni và Klevsin cùng với Gopchik tới chỗ cái máy trộn bê tông lớn ở gần đó và khênh lên nhà máy điện. Thế là đã rõ, đội 104 phải chuyển lên làm ở nhà máy điện chưa xây xong và bị bỏ dở từ dạo mùa thu tới giờ. Hắn cắt cử thêm hai người nữa tới kho dụng cụ, ở đấy Pavlo đã lĩnh và đang chờ.
Bốn người được phân công dọn sạch tuyết gần khu nhà máy điện, lối cửa vào phòng máy phát và cả bên trong nữa. Hắn lệnh thêm hai người khác đốt lò ở đó, xoáy ở đâu ít ván thì xoáy, rồi chẻ nhỏ ra mà nhóm lò. Một người chở xi măng trên xe cút kít lên đó. Hai người đi chở nước, hai người chở cát, thêm một người dọn sạch tuyết ở chỗ cát đó và lấy đòn mà đập cho cát tơi ra.
Cuối cùng chỉ còn Sukhov và Kildigs - hai thợ lành nghề nhất đội, là chưa được phân công.
Turin gọi họ và bảo:
- Thế này, các cậu (hắn còn ít tuổi hơn họ, song theo thói quen vẫn cứ cậu cậu tớ tớ với họ), - sau bữa trưa các cậu xây nốt bức tường ở tầng hai mà đội 6 bỏ dở mùa thu vừa rồi. Nhưng trước tiên phải làm cho phòng máy phát ấm lên cái hẵng. Ở đó có ba cửa sổ lớn, tôi muốn các cậu lấy cái gì đó bịt lại. Tôi sẽ cắt người giúp các cậu, vấn đề là phải nghĩ xem kiếm cái gì để bịt. Ta sẽ dùng phòng máy phát để trộn vữa và sưởi ấm. Nếu không kiếm cách mà sưởi cho ấm người lên thì sẽ chết cóng như chó hoang cả lũ, hiểu chưa?
Hắn đang còn định nói gì thêm nữa, thì Gopchik, một thằng nhỏ mười sáu tuổi, hai má phúng phính hồng hào trông như lợn con, chạy tới than phiền một đội khác cứ giữ chịt lấy cái thùng trộn bê tông, không chịu nhả. Turin chạy bổ tới đó.
Khỏi cần biết bắt đầu một ngày làm việc trong cái lạnh băng giá khó khăn tới nhường nào, có điều vẫn cứ phải bắt đầu và quan trọng là phải vượt qua được điểm khởi đầu ấy.
Sukhov và Kildigs nhìn nhau. Họ đã nhiều lần làm việc cùng nhau, lúc làm mộc, lúc làm nề, và luôn kính nể nhau. Tìm cái gì trên cái công trường đầy tuyết này để mà bịt cửa sổ là công việc không mấy dễ dàng. Nhưng Kildigs nói:
- Vanhia(7)! tớ biết một chỗ ở gần nhà đựng vật liệu có một cuộn giấy dầu to lắm. Chính tớ đã giấu nó ở đấy. Ta thuổng chứ?
Kildigs là người Lestoni, song nói tiếng Nga như người Nga. Hồi còn nhỏ hắn học tiếng Nga ở làng Cựu giáo(8) bên cạnh. Hắn ở trong trại mới hai năm, nhưng gì cũng biết. Hắn hiểu rằng mình không tự giúp mình thì chẳng ai giúp cho. Tên của Kildigs là Ian, Sukhov cũng gọi hắn là Vanhia.
Cả hai quyết định thuổng cuộn giấy dầu. Song trước đó Sukhov còn phải chạy đi lấy cái bay của mình ở khu xây dựng xưởng sửa chữa xe cộ. Cái bay là cả một vấn đề đối với người thợ xây, nếu nó nhẹ và vừa tay. Tuy nhiên, mọi chỗ làm đều phải tuân theo luật lệ: sáng nhận dụng cụ, chiều phải nộp lại. Và sáng hôm sau nhận được cái gì đều phụ thuộc vào may rủi.
Có một lần Sukhov lừa được tên cấp dụng cụ trong kho và giữ riêng cho mình một cái bay cực tốt. Bây giờ, mỗi chiều xong việc anh lại tìm chỗ giấu nó, sáng sau lại lấy ra nếu như vẫn phải làm hồ. Tất nhiên, giá hôm nay đội 104 bị lùa ra Khu dịch xã thì anh đâu có lấy được nó. Nhưng giờ thì anh đẩy hòn đá nhỏ sang một bên, đút mấy ngón tay vào một kẽ hở. Nó đây rồi, anh lôi cái bay ra.
Sukhov và Kildigs ra khỏi xường sửa chữa xe và đi về phía kho vật liệu. Từng đám khói dày đặc bốc lên từ hơi thở của họ. Mặt trời đã lên cao, song không có nắng, như thể bị bọc trong sương mù, còn hai bên mặt trời có những cái gì đâm lên tua tủa giống như những cái cọc.
- Có phải cọc không nhỉ? - Sukhov hất mặt chỉ cho Kildigs.
- Cọc đâu có làm phiền chúng mình, - Kildigs phẩy tay cười lớn, - có điều đừng có giăng nhiều giây thép gai lên chúng như thế, cậu cứ thử nhìn mà xem.
Kildigs cứ nói một câu là đùa một câu, nhưng cả đội đều mến hắn. Và ôi chao, tất cả các phạm người Lestoni mới nể hắn làm sao! Thì, tất nhiên rồi, tháng hai lần nhận được đồ tiếp tế, hẳn là hắn được ăn uống tử tế rồi. Mặt mũi hồng hào, nom hắn ai bảo hắn ở tù. Chả trách thích đùa là phải.
Công trường mới rộng làm sao, đi mãi mới hết. Trên đường, hai người gặp các anh em bên đội 82 - họ lại bị bắt đào hố. Hố không cần lớn lắm, rộng 50, dài 50, sâu 50. Nhưng ở cái chốn này mùa hè đất đã cứng như đá rồi, huống hồ mùa đông, còn phải đục thêm một lớp băng bên trên đi nữa. Lấy cuốc chim bổ xuống thì cuốc văng ra, độc thấy những tia lửa toé ra chứ có thấy tí đất nào đâu. Các phạm đứng trên hố của mình ngó quanh - chẳng có lấy một chỗ sưởi cho ấm, mà cũng không được bỏ đi. Đành phải lấy cuốc tiếp tục bổ vậy, chỉ có thế người mới ấm lên được.
Sukhov nhìn thấy một phạm quen trong số đó, người Viatich**, liền mách nước:
- Sao các cậu không nhóm lấy một đống lửa để cho băng tan ra, đào có phải dễ không.
- Chúng không cho, - gã người Viatich thở dài nói, - không cho củi.
- Thì phải kiếm chứ.
Còn Kildigs chỉ nhổ toẹt một bãi xuống đất.
- Vanhia, thử nghĩ xem, thằng đội trưởng mà khôn ngoan thì anh em đâu phải ở ngoài trời trong ngày băng giá mà chọc ngoáy đất bằng ba cái cuốc chim như thế này.
Kildigs chửi bới một thôi một hồi, chợt nhớ ra không được nói nhiều ngoài trời lạnh, hắn bèn im bặt.
Hai người tiếp tục đi mãi mới đến được chỗ mấy tấm ván của kho vật liệu bị tuyết phủ dầy.
Sukhov rất khóai làm việc cùng Kildigs, phải mỗi cái cha này không hút thuốc, nên trong các gói đồ tiếp tế của hắn chả bao giờ có thuốc lá cả.
Và đúng là Kildigs tinh thật: hai người lật một tấm ván lên, rồi một tấm nữa, dưới chúng quả là có một cuộn giấy dầu lợp nhà thật. Họ giở nó ra. Bây giờ thì khênh đi thế nào đây? Lính trên các chòi gác nhìn thấy cũng chẳng sao, các bố này chỉ quan tâm mỗi điều sao cho tù khỏi chạy trốn, còn ở trong công trường thì cứ việc chặt hết các tấm ván ra mà làm củi cũng được. Hoặc có đụng giám thị trại cũng cóc sợ, là vì bản thân các bố này cũng luôn để ý kiếm các thứ cho bản thân. Còn anh em phạm thì đâu thèm để ý. Cả các đội trưởng cũng thế. Chỉ có mấy người cần phải tránh, đó là ông đốc công (ông này không phải tù nhân) và thằng Skuropatenko cao ngẳng, gầy quắt. Tên này chẳng là gì hết, chỉ là một phạm bình thường, nhưng được thuê trông coi mấy cái kho vật liệu, không để phạm lấy cắp các thứ. Chính thằng khốn Skuropatenko này hay rình rập và tóm được anh em nhất.
- Vanhia này, không nên khiêng ngang cuộn giấy, - Sukhov bàn, - mà phải khiêng đứng nó lên, hai tay ôm lấy nó và đi chậm chậm thôi, lấy thân mình che cho nó. Nhìn từ xa sẽ không thấy gì đâu.
Sáng kiến của Sukhov khá hay. Khiêng cuộn giấy thật bất tiện, và họ không khiêng như vậy, mà ôm chặt nó vào giữa hai người, như thể có người thứ ba, rồi bước đi. Nhìn bên cạnh chỉ thấy có hai người đi sát vào nhau thôi.
- Sau này lão đốc công mà nhìn thấy đám giấy dầu trên cửa sổ chắc thể nào cũng đoán ra.
- Thì chúng mình dính dáng chó gì đến việc này mà sợ - Kildigs ngạc nhiên - Cứ bảo khi bọn mình tới nhà máy, thì nó đã có ở đấy rồi. Chả lẽ họ lại bắt mình dỡ ra à.
Cũng có lý.
Các ngón tay anh trong đôi bao tay cà tàng bị tê dại đã mất cảm giác. Cái lạnh chui được vào bốt chân trái rồi. Đôi bốt dạ là cái quan trọng nhất. Hai tay sẽ ấm khi nào làm việc.
Họ đi qua lớp tuyết còn nguyên chưa một dấu chân người, tới chỗ có vết xe trượt chạy từ kho dụng cụ đến nhà máy điện. Thế có nghĩa xi măng đã được chở tới chỗ làm rồi.
Nhà máy điện được xây dựng trên một chỗ đất cao, giáp với bìa công trường. Lâu rồi không có ai tới đây nên tuyết xung quanh nhà máy làm thành một lớp phẳng lì, không một dấu vết.
Chính vì vậy mà vết xe trượt và dấu chân người lún sâu xuống tuyết trông càng nổi rõ, chứng tỏ anh em trong đội đã tới đây. Và họ đang lấy xẻng gỗ dọn sạch tuyết gần nhà máy và trên đường đi, lấy lối cho xe chạy.
Giá cái máy nâng trong nhà máy điện còn họat động thì tốt quá. Động cơ bị cháy và từ độ đó đến nay chả thấy chữa chạy gì. Như thế có nghĩa mọi thứ chuyển lên tầng hai đều phải khuân bằng tay hết. Cả vữa. Cả cột bê tông.
Nhà máy điện đã phải ngừng xây dựng từ hai tháng nay. Trông nó giống như một bộ xương xám bị bỏ mặc cho tuyết phủ đầy. Nhưng đội 104 đã tới. Làm thế nào cho nó sống lại được? Bụng thì trống trơn được thắt chặt lại bằng giây thừng; không chỗ trú, không lửa sưởi. Nhưng đội 104 đã tới và cuộc sống lại bắt đầu.
Cái thùng trộn xi măng nằm chắn ngang chỗ lối đi vào phòng máy phát. Nó đã rệu rã và Sukhov không nghĩ rằng nó sẽ được khênh tới nguyên vẹn. Đội trưởng thì chửi bới ầm ĩ cho sướng mồm, chứ bản thân hắn cũng biết chẳng phải lỗi tại ai. Ngay lúc đó Sukhov và Kildigs ôm cuộn giấy dầu ở giữa đi tới. Đội trưởng mừng rỡ liền bố trí lại công việc: Sukhov được sai sửa ống khói lò sao cho nó cháy càng nhanh càng tốt, còn Kildigs thì vá víu, sửa lại cái thùng trộn xi măng, có hai anh chàng Estoni phụ giúp. Hắn đưa cho Senka Klevsin một cái rìu để chẻ nẹp gỗ, rồi đóng đinh ghép giấy dầu lại, vì nó ngắn chỉ bằng phân nửa kích cỡ cửa sổ. Nhưng lấy đâu ra các thanh gỗ? Lão đốc công chắc chả đời nào chi cho họ những tấm ván chỉ để chẻ ra mà sưởi. Đội trưởng ngó quanh. Tất cả mọi người cũng nhìn quanh. Chỉ còn mỗi một cách: cậy lấy hai tấm ván - thanh vịn cầu thang lên tầng hai. Đành phải bước cho cẩn thận để khỏi lộn cổ xuống dưới đất. Còn biết làm thế nào?
Tại sao một người tù lại cứ phải làm quần quật như vậy suốt mười năm trong trại giam? Tại sao anh ta không thây kệ mọi sự và nhẩn nha cả ngày cho tới đêm, mà đêm thì là của ta rồi?
Nhưng đâu có được. Để bắt tù làm việc, người ta mới nghĩ ra ba cái đội như thế này. Không giống như đội sản xuất ở “bên ngoài”, trong đó mỗi người được trả lương riêng biệt. Trong các trại giam, đội là một tổ chức không phải do các sếp phía trên giám sát, mà là phạm giám sát lẫn nhau. Nó như thế này: hoặc tất cả được thêm chút gì đó, hoặc tất cả đều phải đói.
Mày không làm việc, đồ thối tha, còn tao thì vì mày mà ngồi nhịn đói chắc? Không, làm đi, đồ chết toi!
Rồi có những lúc, như lúc này đây, lại càng không thể ngồi đấy mà rung đùi được. Muốn hay không muốn, cứ phải lẹ chân lẹ tay lên. Nếu sau hai giờ nữa mà cái chỗ này không ấm lên được, thì chết cóng cả lũ.
Pavlo đã khuân đồ lề về, mọi người chỉ việc chọn thứ mình cần. Có cả mấy cái ống nữa, nhưng không có dụng cụ để lắp các ống sắt tây, ngoài một cái búa và một cái rìu nhỏ. Rồi cũng có cách làm được.
Sukhov đập đập đôi tay đeo bao vào nhau, đặt các ống đầu ống nọ sát vào đầu ống kia, ghép chúng lại với nhau bằng cách xiết chặt các mộng đuôi én lại ở các chỗ tiếp giáp. Xong, lại vỗ vỗ đôi tay đeo găng vào nhau, rồi lại tiếp tục ghép ống (anh giấu chiếc bay của mình ở gần ngay đây. Dù mọi người trong đội đều là anh em, song điều đó cũng không ngăn cản các tướng tráo của nhau. Ngay Kildigs cũng dám lắm).
Mọi ý nghĩ trong đầu Sukhov lúc này bị xua ra ngoài hết. Anh không còn nghĩ đến cái gì, không quan tâm đến điều gì, ngoài việc ghép bằng được cái ống khói, sao cho cái lò khỏi khói um lên. Anh sai Gopchik đi tìm một đoạn giây thừng để buộc đầu ống khói vào cửa sổ cho nó chĩa ra bên ngoài.
Ở góc xưởng còn một cái lò bụng phệ, ống khói xây bằng gạch. Trên nóc lò có một tấm sắt bị nung nóng và bên trên nó băng bám vào cát bị tan ra, cát được sấy khô. Cái lò này đã được đốt, ông trung tá cùng Fechiukov khênh cát đổ lên trên. Việc khênh cát không đòi hỏi đầu óc. Cho nên đội trưởng mới phân cho những người trước đây từng là sếp. Fechiukov có hồi đã từng là thủ trưởng trong một cơ quan nào đó. Hắn còn có cả xe riêng. Những ngày đầu khi ông trung tá hải quân mới nhập trại, hắn toan giở trò bắt nạt ông. Sau khi bị trung tá cho sơi mấy quả đấm, mọi chuyện mới đâu vào đấy.
Có mấy tay cứ xán tới cái lò sấy cát để sưởi, nhưng đội trưởng Turin cảnh cáo:
- Làm đi mấy tướng, muốn sưởi thì đưa đít ra, đây sưởi cho!
Con chó bị đánh thì chỉ cần nhìn thấy roi là sợ. Băng giá đã khắc nghiệt, tay đội trưởng này còn nghiệt hơn. Mấy anh em tản ra, ai vào việc nấy.
Sukhov nghe thấy Turin thì thầm vào tai Pavlo:
- Cậu ở đây trông coi họ, rắn vào. Giờ tớ phải đi đăng kí phần trăm định mức đây.
Mọi thứ phụ thuộc vào cái phần trăm này nhiều hơn là bản thân công việc. Tay đội trưởng nào tinh khôn thì lo lắng về khoản này, chứ không phải về công việc được giao. Bởi gắn với phần trăm là những thứ nhét vào bụng. Nếu việc chưa làm xong, thì cứ làm như có vẻ đã xong, năng xuất thấp thì biến báo cho nó tăng lên. Để làm được những việc này đòi hỏi đội trưởng phải có cái đầu. Nhưng cũng còn phải lo lót cho mấy thằng chó chết trên bộ phận chỉ tiêu thì mới được việc.
Nói cho cùng, những phần trăm ấy đem lại lợi ích cho ai? Chính là cho trại. Các sếp kiếm được từ vụ này hàng nghìn rúp dôi ra, một phần lấy làm tiền thưởng cho các sĩ quan, như hạng Volkovoi với cái roi trong tay ấy. Còn bản thân phạm thì chỉ được thêm 200 gram bánh mì vào bữa tối. Hai trăm gram bánh mì ấy điều hành cuộc sống của họ. Với hai trăm gram bánh mì ấy cả một hệ thống khổng lồ kênh đào Belomor đã được xây dựng.
Hai xô nước được xách tới, song trên đường đi nước trong xô đã đóng băng lại. Pavlo nảy ra sáng kiến, tội chó gì mà phải xách nước cho mất công, cứ việc đun tuyết tại chỗ cho nó chảy ra là xong, và thế là họ xúc tuyết vào xô, đặt lên lò sấy.
Gopchik bẻ gấp lại một đoạn giây nhôm còn mới - loại dùng để kéo giây điện. Nó nói với Sekhov:
- Chú Ivan Denhisych! Cái giây này làm thìa tốt lắm. Chú dạy cháu làm thìa với nhé.
Sukhov rất thích thằng ranh con láu cá này (con trai anh mất lúc còn nhỏ, ở nhà chỉ còn hai cô con gái lớn). Gopchik bị bắt vì tội đã mang sữa vào rừng cho quân của tướng Bender(9) và bị lĩnh án như người lớn. Nó dễ thương như một chú bê nhỏ và quấn quýt với mọi người trong đội. Nhưng nó cũng cáo ra phết: nhận được đồ tiếp tế là ăn một mình, thỉnh thoảng ban đêm cũng thấy nhai tóp tép.
Ờ mà làm sao chia hết được cho tất cả mọi người trong đội.
Hai người gấp đoạn giây làm thìa lại rồi giấu vào một góc. Sukhov lấy hai tấm ván buộc lại làm thành một cái thang ghế và sai Gopchik đứng trên đó buộc ống khói. Gopchik thoăn thoắt trèo lên như một con sóc. Nó đóng một cái đinh, móc một đầu giây thép vào đó và quấn xung quanh ống khói. Sukhov lại lấy một cái ống nữa để nó nối tiếp vào miệng cái ống khói đã buộc. Hôm nay không có gió lùa vào hướng này, nhưng ngày mai có thể có, nối thêm ống như vậy để khói không tạt trở lại vào phòng. Thì cái lò này dùng cho quân mình mà lại.
Còn Senka Klevsin thì mãi bây giờ mới làm xong mấy cái nẹp gỗ. Gopchik lại bị sai trèo lên để đóng. Thẳng quỷ con trèo lên cửa sổ, la lối om sòm xuống phía dưới.
Mặt trời đã lên cao, sương mù đã tan nên không còn thấy mấy cái mống trông giống như mấy cái cọc kia nữa. Một màu đỏ ối ở chính giữa mặt trời. Lò đã được nhóm bằng đống củi ăn cắp được. Còn gì sướng hơn đây!
- Nắng tháng Giêng thì chỉ sưởi ấm được da bò thôi, - Sukhov giải thích.
Kildigs cũng vừa sửa xong cái thùng trộn vữa, còn lấy cái rìu nhỏ cố gõ thêm vài nhát nữa. Hắn hô to:
- Nghe đây, Pavlo, xong việc này đội phải trả cho tôi một trăm rúp. Ít hơn, không nhận!
Pavlo cười:
- Cậu sẽ được nhận thêm một trăm gram bánh.
- Để ông công tố bồi dưỡng thêm cho! - Gopchik ở trên hét xuống.
- Hượm đã! hượm đã! - Sukhov gắt lên.
Mọi người cắt giấy dầu không đúng cách, anh ngăn lại và chỉ cho họ cách cắt.
Có mấy tay sà tới bên chiếc lò bằng sắt tây, song bị Pavlo xua đi. Hắn cho Kildigs thêm vài người phụ hồ nữa và ra lệnh làm những cái cáng(10) để khênh vữa lên tầng hai. Sau đó phái hai người nữa đi lấy cát, hai người khác dọn sạch tuyết trên giàn giáo và trên tường. Một người nữa thì xúc cát đã được sấy khô trên lò và hất vào máy trộn bê tông.
Bên ngoài có tiếng động cơ ô tô. Xe chở gạch đã tới. Pavlo chạy ra vẫy vẫy và chỉ cho mọi người chỗ dỡ gạch xuống.
Người ta đóng đinh bịt một lớp giấy dầu che kín cửa sổ, rồi một lớp nữa. Giấy dầu thì che kín nỗi gì, thì cũng chỉ là giấy chứ quái gì. Tuy nhiên, tường trông chắc chắn hơn. Bên trong trở nên tối hơn và lửa trong lò có vẻ cháy sáng hơn.
Aliosa mang than tới. Người thì kêu lên: “đổ hết vào lò!”, kẻ ngăn lại: “không được đổ, đốt củi ấm hơn!”. Aliosa không còn biết nghe ai.
Fechiukov ngồi xuống cạnh lò và cứ thế đưa hai chân đi ủng sát vào lửa. Thằng ngu thế chứ.
Ông trung tá nắm cổ hắn lôi ra và đẩy về phía chiếc xe cút kít:
- Đi chở cát, đồ bấc thối!
Ông trung tá hải quân coi công việc trong trại giống như công việc trên tầu của ông: đã lệnh là phải làm ngay! Tháng này ông trung tá trông sút hẳn, song vẫn cố gắng sức.
Lâu hay mau, cuối cùng thì cả ba cái cửa sổ đều đã được bịt kín. Bây giờ ánh sáng chỉ còn hắt vào từ phía cửa chính. Và cái lạnh cũng theo đó mà vào. Pavlo ra lệnh che kín nửa trên cái cửa ra vào lại, chỉ để trống nửa dưới và người ra vào phải cúi khom khom. Các cửa khác cũng được bịt như vậy.
Trong thời gian đó gạch do ba chiếc xe tải chở đến đang nằm lăn lóc trên sàn đất. Làm sao để chuyển đống gạch đó lên được tầng hai mà không cần đến máy nâng?
- Ê, mấy bác thợ nề! Ta thử lên đó xem sao! - Pavlo mời.
Xây tường được xem là một công việc vinh dự. Sukhov và Kildigs cùng Pavlo đi lên tầng trên. Thang đã hẹp mà Senka lại lấy đi hai thanh tay vịn để làm nẹp bịt cửa sổ, nên phải bám vào tường cho khỏi ngã. Thêm vào đó tuyết còn bám chặt trên mặt thang khiến nó trơn tuột, chân không bám vào được, thế này thì khênh vữa lên làm sao đây?
Họ xem xét bức tường xây dở. Phải lấy xẻng dọn sạch tuyết bám vào, sau đó dùng rìu chặt những chỗ băng bám vào gạch rồi dùng chổi quét cho sạch.
Họ tính xem chuyển gạch lên bằng cách nào. Nhìn xuống phía dưới họ quyết định tốt nhất là đừng khuân lên theo lối cầu thang, mà cắt bốn người đứng dưới ném gạch lên dàn giáo thứ nhất. Trên đó có hai người ném tiếp lên tầng hai. Trên tầng hai có hai người làm nhiệm vụ chuyển gạch cho thợ xây - như thế sẽ nhanh hơn.
Ở tầng trên gió không mạnh lắm, song dai dẳng, đủ xuyên thẳng vào người lúc làm việc.
Nhưng nếu cúi xuống bức tường xây dở, nấp đằng sau nó thì sẽ thấy ấm hơn nhiều.
Sukhov nhìn lên và giật mình: trời trong veo. Căn cứ vào mặt trời lên cao thì sắp tới bữa trưa rồi. Thật là lạ, lúc làm việc sao thấy ngày giờ trôi mau thế! Biết bao lần Sukhov nhận thấy ngày trong trại qua đi rất nhanh, ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết một ngày. Ấy thế nhưng ngày mãn hạn thì mãi chẳng thấy tới, như thể nó không nhích lên được chút nào ấy.
Họ đi xuống dưới, ở đó mọi người đã ngồi xúm xít quanh cái lò, chỉ có ông trung tá cùng với Fechiukov đang khiêng cát. Pavlo cáu um lên, lập tức xua tám người đi chuyển gạch, hai người đổ cát khô và xi măng vào thùng trộn bê tông, người thì đi lấy nước, người đi lấy than.
Còn Kildigs thì nói với nhóm của mình:
- Các cậu khá lắm, phải làm xong cho nhanh mấy cái cáng.
- Để tôi giúp họ một tay? - Sukhov nói với Pavlo, tự xin việc.
- Ừ, giúp họ đi. - Pavlo gật đầu.
Ngay lúc đó một chiếc thùng sắt được mang tới để đun tuyết cho chảy ra lấy nước trộn bê tông. Có người nào đó nói hình như đã mười hai giờ rồi.
- Lại còn không đến mười hai giờ, - Sukhov nói đế vào - mặt trời đã lên đến đỉnh đầu rồi.
- Nếu mặt trời lên đến đỉnh đầu, có nghĩa không phải mười hai giờ, mà là một giờ, - ông trung tá sửa ngay.
- Sao lại thế được? - Sukhov ngạc nhiên. - Các cụ chả bảo khi nào mặt trời lên đến đỉnh đầu, lúc đó là giờ ăn trưa.
- Đó là mấy cụ người âm lịch nói! - ông trung tá đập lại, - chứ bây giờ đã có luật, mặt trời lên tới đỉnh là đúng một giờ.
- Ai ra cái luật đó?
- Chính quyền Xô Viết!
Ông trung tá mang cái cáng khiêng cát ra ngoài, dù sao thì Sukhov cũng chẳng muốn cãi lý với ông.
Chả có lẽ đến mặt trời cũng phải theo luật của họ sao?
Đập gõ một hồi, cuối cùng anh em cũng làm thêm được bốn cái cáng khiêng vữa nữa.
- Thôi được rồi, ngồi sưởi ấm cái đã, - Pavlo nói với hai người thợ xây, - Senka ạ, ăn trưa xong hẵng xây. Ngồi xuống đi!
Và lúc này thì tất cả mọi người đều có quyền ngồi cạnh cái lò mà sưởi. Đằng nào cũng vậy, không thể xây trước bữa trưa, đánh vữa sớm để cho nó đóng bánh lại à.
Than trong lò cháy phừng phừng và toả đều hơi nóng. Nhưng phải ngồi cạnh lò mới thấy ấm, những chỗ khác trong nhà vẫn lạnh như thường.
Bốn người cởi bao tay hơ lên bếp lò. Còn chân đi ủng thì tuyệt đối không được để sát vào lửa, đó là điều cần phải biết. Nếu là ủng da thì nó sẽ nứt, còn ủng dạ thì sẽ ướt sũng và bốc khói, mà chân thì vẫn bị lạnh. Để ủng sát cạnh lửa còn rất dễ bị cháy, rồi là phải đi ủng thủng cho tới tận mùa xuân. Chờ đấy người ta phát ủng mới cho!
- Sukhov thì còn phải lo gì nữa, một chân anh ấy đã ở nhà rồi còn gì, - Kildigs lại bắt đầu đùa.
- Cái chân không kia kìa, - ai đó chỉ vào cái chân để trần của anh (Sukhov cởi chiếc ủng trái có lỗ thủng ra và đang hơ đám giẻ quấn chân). Mọi người cười ầm.
- Thế là Sukhov sắp mãn hạn rồi.
Bản thân Kildigs bị hai mươi nhăm năm. Trước kia tội như anh tất cả chỉ bị mười năm thôi.
Từ năm 49 tới giờ, nặng nhẹ gì cũng hai mươi nhăm năm tuốt. Mười năm còn có hi vọng sống sót mà về, chứ hai mươi nhăm năm thì có mà về cái khỉ mốc.
Sukhov thấy khoan khoái khi mọi người chỉ anh mà nói anh sắp sửa mãn hạn tù. Song anh cũng chẳng lấy làm tin lắm vào chuyện đó. Thì đấy, có những ngưỡi mãn hạn trong chiến tranh, nhưng người ta cứ kéo dài cho đến tận năm 46 đấy. Có người hạn tù chỉ có ba năm, sau bị kéo dài thành năm năm.
Luật lệ bẻ cong thế nào cũng được. Hết hạn mười năm, người ta sẵn sàng bồi thêm cho anh thêm một hạn mười năm nữa, hay tống anh đi đày, không cho về quê quán.
Biết thế nhưng bụng vẫn cứ nôn nao thế nào ấy. Biết đâu số mình lại chẳng gặp may. Chúa ơi! làm sao hình dung nổi cái lúc mình bước chân ra khỏi đây, hả?
Song không khi nào người tù có thâm niên lại nói tất cả những điều đó ra miệng. Và Sukhov chỉ nói với Kildigs:
- Cậu đừng có đếm hai mươi nhăm năm làm chó gì cho mệt xác. Có ngồi tất cả hai mươi nhăm năm hay không, ai mà biết được. Nhưng chỉ biết tớ đã ngồi đủ tám năm rồi, đó là cái chắc.
Thế cho nên cứ phải cúi mặt xuống mà sống, thời gian đâu mà nghĩ: vì sao mình phải vào đây và khi nào mình được thả?
Trong hồ sơ Sukhov bị tù vì tội phản bội tổ quốc. Và anh cũng khai mình như vậy: đầu hàng để bị bắt làm tù binh với ý đồ phản bội tổ quốc. Trước lúc được thả về đã nhận chỉ thị của cơ quan gián điệp Đức. Nhưng chỉ thị gì thì cả Sukhov, cả cán bộ điều tra thẩm vấn, mãi không bịa được, đành phải bỏ lửng như vậy và ghi vào hồ sơ: nhận chỉ thị.
Ở cơ quan phản gián, Sukhov bị tra tấn nhiều lần, và anh đã tính toán rất đơn giản: nếu không ký thì cầm chắc sẽ nằm dưới ba tấc đất, nếu kí thì còn có cơ sống lâu thêm một chút.
Và thế là anh ký.
Thực ra đầu đuôi câu chuyện là thế này: tháng hai năm 1942, cả đạo quân của anh bị bao vây tại mặt trận Tây-Bắc. Họ không thể tiếp tế lương thực cho bọn anh được - không có máy bay. Chả có gì đút vào bụng. Tình hình nguy cấp tới mức lính phải chặt ngựa chết, ngâm vào nước cho mềm ra mà ăn. Và cũng chẳng còn gì để mà bắn. Thế là quân Đức tìm thấy họ ở trong rừng, từng toán một, và bắt làm tù binh. Sukhov ở trong một toán như thế, bị bắt làm tù binh mấy ngày, ngay trong rừng. Sau đó anh chạy trốn cùng với bốn người nữa. Len lỏi, ẩn nấp trong rừng, dưới đầm lầy, và như có phép lạ, bọn anh đã gặp được người đằng mình.
Nhưng hai người lập tức bị ngay xạ thủ đại liên của mình bắn chết tại chỗ, người thứ ba chết vì tử thương, chỉ còn hai người sống sót. Gíá khôn ra thì phải khai là bị lạc trong rừng, thì chả làm sao. Đằng này lại thật thà: chúng tôi trốn khỏi đoàn tù binh của quân Đức. Sao? Trốn khỏi bọn Đức cơ đấy? Mẹ chúng mày, quân gián điệp cho bọn phát xít. Và thế là bị tống giam. Giá cả năm tên còn sống, thì họ phối kiểm khẩu cung và may ra còn tin. Nhưng chỉ còn hai tên thì vô phương: họ cứ nằng nặc bảo rằng hai thằng khốn nạn đã thông đồng với bọn Đức giả vờ chạy trốn.
Nghễnh ngãng như Senka Klevsin mà cũng nghe thủng câu chuyện về tù binh, anh nói tướng lên:
- Tớ đã ba lần chạy trốn, nhưng cả ba lần đều bị bắt lại.
Senka mới thật khốn nạn, anh bị điếc nặng nên phần lớn thời gian chỉ im lặng: anh đâu có nghe thấy người ta nói gì và cũng không xen vào câu chuyện của mọi người. Vì thế anh em trong đội biết ít về anh, chỉ biết anh từng bị bắt giam ở Buchenvald và ở đó anh tham gia tổ chức bí mật, chuyển vũ khí vào trại giam cho cuộc nổi dậy của tù binh. Bọn Đức phát hiện ra, chúng treo ngược anh lên, trói giật cánh khuỷu, đánh cho đến thủng nốt màng nhĩ tai kia.
- Này Vanhia, cậu ngồi tù tám năm - ở những trại nào vậy? - Kildigs liệt kê những nhà tù. - Cậu cũng đã ở tù dân sự, thế thì được ở với đàn bà và chắc không phải đeo số? Chứ tám năm trong trại hình lại là chuyện khác, chưa có ai sống nổi tới lúc mãn hạn đâu.
- Ở chung với đàn bà! Với mấy khúc gỗ thì có...
Sukhov đăm chiêu nhìn ngọn lửa và nhớ lại bẩy năm tù ở miền Bắc. Suốt ba năm dòng anh phải kéo gỗ làm tà vẹt đường xe lửa. Đống lửa cháy ở chỗ khai thác gỗ mỗi khi làm đêm cũng bập bùng như bây giờ. Hồi đó trại trưởng đề ra cái luật như sau: đội nào làm ngày không đủ định mức, phải làm bù vào ban đêm. Tới quá nửa đêm mới lê được về tới trại, buổi sáng, mới bảnh mắt đã phải dậy đi vào rừng.
- Không, mấy ông bạn ơi... ở đây còn dễ chịu hơn nhiều, - anh phều phào nói. - Ở đây ăn ngủ còn có giờ giấc. Làm xong việc hay không xong việc - vẫn được về trại, và ở đây khẩu phần còn cao hơn những 100 gram. Còn sống được. Trại đặc biệt - thì kệ con mẹ nó, bận đếch gì đến mình. Hay đeo số thấy phiền phức chăng? Nó có nặng thêm chút nào đâu.
- Dễ chịu hơn! - Fechiukov gắt gỏng (đã tới giờ ăn trưa, mọi người xúm xít xung quanh cái lò). - Đêm đang ngủ chúng mò đến cắt cổ, dễ chịu gớm!
- Người thường ai cắt cổ, chỉ bọn chỉ điểm mới bị thôi! - Pavlo giơ ngón tay dọa Fechiukov.
Trong trại quả mới có chuyện ấy thật. Hai thằng cha chỉ điểm nổi tiếng bị cắt cổ ngay trong giờ báo thức. Một phạm vô tội cũng bị - chắc là bị lầm với ai đó. Còn một thằng chỉ điểm nữa chạy trốn đến chỗ cấp trên, ở đó người ta phải giấu hắn vào xà lim. Kì quặc - những chuyện như thế trong trại tù thường đâu có xẩy ra. Ngay trong trại này trước cũng không có những chuyện như vậy...
Cái còi đầu máy hơi nước bỗng huýt lên. Nó không huýt toáng lên ngay, mà lúc đầu còn khục khặc, khàn khàn như người xúc miệng.
Hết nửa ngày rồi - nghỉ trưa, đi ăn thôi!
Mẹ kiếp, cứ dề dà! đáng lẽ phải đi vào nhà ăn mà xếp hàng lâu rồi mới phải. Có mười một đội làm việc trên công trường, mà nhà ăn thì chỉ chứa được hai đội.
Mà mãi không thấy đội trưởng đâu. Pavlo lia mắt nhìn quanh rồi quyết định:
- Sukhov, Gopchik theo tôi! Kildigs! Lúc nào tôi phái Gopchik trở lại là anh phải cùng toàn đội tới ngay!
Mấy người vừa đi khỏi, chỗ của họ liền bị chiếm ngay. Cái lối họ chen vào ôm lấy cái lò, như thể ôm đàn bà vậy.
- Đừng ngủ nữa! - mấy tướng hét toáng lên, - hút thuốc thôi!
Cả bọn nhìn nhau xem ai châm thuốc. Chả có ai cả. Hoặc cóc có thuốc, hoặc có, nhưng ém nhẹm, không muốn cho ai biết.
Sukhov cùng Pavlo bước ra ngoài. Gopchik chạy tung tăng đằng sau.
- Có ấm hơn rồi đấy. Không quá âm mười tám độ. Giời này xây tốt.
Họ quay nhìn đống gạch. Một số lớn đã được ném lên giàn giáo, một số đã nằm trên sàn tầng hai rồi.
Sukhov nheo mắt nhìn mặt trời xem cái luật mà ông trung tá nói có đúng không.
Ngoài quãng trống không có vật cản, gió vẫn tha hồ thổi và cắn vào mặt nhức buốt, như nhắc ta rằng giờ hãy còn là tháng Giêng.
Nhà ăn của công trường chỉ là một căn nhà gỗ tồi tàn. Giữa nhà là cái bếp lò trên có kê những tấm sắt rỉ để che những khe hở. Bên trong ngăn ra một phần làm bếp, phần làm chỗ ngồi ăn. Cả hai phần đều không có sàn gỗ. Mặt đất bị dẵm nát, lồi lõm. Toàn bộ bếp chỉ độc một cái lò vuông, trên đặt một cái nồi lớn.
Có hai người phục dịch trong bếp: cấp dưỡng và một người kiểm tra vệ sinh. Buổi sáng, trước khi rời khỏi trại, cấp dưỡng đã lĩnh hạt mạch ở bếp chính của trại. Tính ra mỗi đầu người được khoảng 50 gram, cả đội - một kí lô, còn toàn công trường khoảng hơn một yến.
Tay cấp dưỡng chả tội vạ gì mà phải vác cái bao hơn chục kí đi hơn ba cây số từ trại đến công trường. Hắn giao việc này cho một phạm tin cậy. Chẳng thà ăn bớt của đám tù để thuê thằng này còn hơn sụm lưng mà mang vác. Các việc khác cũng vậy, xách nước, bổ củi, nhóm lò, thằng cha này chẳng động tay, tất cả đều thuê phạm - bọn vét đĩa, làm hết, và cũng lại bấu vào phần của anh em để cho bọn này. Thì của người phúc ta mà lại. Lại còn cái luật này nữa: không được ăn ở ngoài nhà ăn. Vì vậy ngày nào cũng phải mang bát đi theo (cũng không thể để bát lại ở công trường qua đêm được, dân ngoài sẽ vào lấy hết). Có tới năm chục cái bát, cứ mỗi đội ăn xong là phải rửa ngay cho đội sau, và người thu dọn bát cũng được thêm phần. Để bát không bị tuồn ra ngoài, người ta đã cắt cử một phạm tin cậy đứng kiểm tra ở cửa. Nhưng tha hồ cho kiểm tra anh em vẫn mang được bát ra ngoài như thường, hoặc nói khó với tên kiểm soát, hoặc đợi lúc hắn sơ ý mang lén ra. Thế là lại phải cử thêm một phạm nữa đi khắp công trường, thu gom bát bẩn mang về. Cả tên soát bát ở cửa, lẫn tên này, đều được cho thêm phần.
Bản thân tên nấu bếp thì chỉ làm mỗi việc: đổ hạt mạch và muối vào nồi. Nếu có mỡ thì hắn chia đôi: hắn một nửa và cái nồi một nửa. (Mỡ ngon chả bao giờ đến lượt tù nhân. Chỉ có mỡ xấu mới được bỏ vào nồi. Chính vì thế tù nhân chỉ mong được lĩnh mỡ xấu ở nhà kho).
Như vậy công việc của tay bếp chỉ là khuấy cháo lúc sắp chín. Còn cha vệ sinh viên thì ngay cả đến việc này cũng chả làm, chỉ ngồi nhìn. Khi cháo chín đầu bếp múc cho hắn trước tiên, muốn ăn bao nhiêu cũng được. Thằng cha đầu bếp cũng thế. Rồi một trong các đội trưởng làm nhiệm vụ trực - họ thay nhau mỗi người một ngày - đến nếm xem cháo nấu như vậy phạm có ăn được không. Cha này được xuất đúp.
Xong xuôi rồi còi mới huýt. Lúc này đội trưởng các đội mới đến, xếp hàng lần lượt đưa bát vào cho tên bếp để lĩnh cháo cho đội mình. Cháo đựng trong bát loãng toẹt, và đừng có hỏi họ đã bỏ bao nhiêu khẩu phần của anh vào đó, bởi chỉ cần mở miệng họ sẽ cho anh ăn đủ các thứ nhơ bẩn nhất.
Gió rít trên thảo nguyên hoang vu - nơi mùa hè thì khô cháy, mùa đông thì băng giá. Ở thảo nguyên còn chẳng cây gì có thể mọc lên được, huống hồ giữa bốn tầng rào giây thép gai.
Lúa mì mọc ở chỗ độc nhất là chỗ phát khẩu phần bánh mì, lúa mạch chỉ được gặt trong kho lương thực của trại. Và dù anh có làm đến gãy lưng hay lê lết ra đó, cũng không thể đào đâu ra thức ăn, ngoài phần trại phát cho. Mà cả khẩu phần này anh cũng không được lĩnh đủ: còn phải cúng cho đầu bếp, cho bọn phạm được thuê làm dịch vụ và đủ thứ hạng khác. Chúng bớt xén, trộm cắp của anh em từ trên xuống dưới và khắp mọi nơi: cả ở đây lẫn trong trại, trước đó cả ở các nhà kho nữa. Mình làm trầy vẩy ra mà chúng cho bao nhiêu chỉ được bấy nhiêu. Và đừng có láng cháng tới gần những chỗ phát đồ ăn.
Ai có thân người ấy khắc tự lo.
Pavlo, Sukhov và Gopchik bước vào nhà ăn - ở đó toàn thấy lưng người là lưng người, chả nhìn thấy bàn ghế đâu. Chỉ có một số đang ngồi ăn, còn phần lớn là đứng. Đội 82 từ sáng tới giờ đào hố ngoài trời, vừa nghe thấy tiếng còi đã xông ngay vào nhà ăn chiếm hết chỗ rồi.
Dù đã ăn xong, nhưng họ vẫn ngồi ỳ ra đó. Thì còn có chỗ nào ấm mà nghỉ nữa? Anh em chửi mắng ầm ĩ đòi chỗ, nhưng chẳng thà vạch đầu gối ra mà chửi còn hơn. Họ đâu có nghe, ngồi trong này nghe chửi còn hơn phải ra ngồi ở ngoài trời giá buốt.
Pavlo và Sukhov lấy khuỷu tay chen đẩy đám đông, đến vừa đúng lúc. Một đội đang lĩnh xuất, đội khác đứng đợi, các đội phó đứng cạnh cửa tò vò chỗ phát cháo. Như vậy đội 104 sắp đến lượt rồi.
- Bát đâu! bát đâu! - tên bếp la hét đằng sau cửa tò vò, mọi người đẩy bát vào cho hắn.
Sukhov nhặt được mấy cái bát sạch cũng tính đẩy vào, không phải để lấy thêm phần cho mình, mà để cho nhanh.
Một vài phạm thân tín của tên bếp đang rửa bát bên trong, bọn này đâu có làm không công.
Người đội phó đứng trước đến lượt lấy đồ ăn cho đội mình, Pavlo quay lại hét qua đầu những người khác: “Gopchik!”
- Cháu đây! - tiếng Gopchik vọng từ cửa vào, giọng nó the thé như tiếng dê con.
- Gọi đội mình tới!
Thằng bé chạy biến đi.
Cái chính là cháo hôm nay không đến nỗi tệ. Vào hạng ngon nhất, được nấu bằng hạt lúa mạch.
Năm thì mười họa mới được như vậy. Thường thì chỉ có món magara ngày hai bữa, hay bột khuấy với nước. Cháo nấu bằng hạt mạch no lâu hơn, quý là ở chỗ đó.
Lúc còn nhỏ Sukhov cho ngựa ăn biết bao nhiêu lúa mạch, anh đâu có ngờ một ngày kia anh chỉ ao ước có được một nắm.
- Bát! bát! - họ lại hét toáng lên.
Đã tới lượt đội 104. Tay đội phó đứng trước nhận khẩu phần đúp của “lãnh đạo” rồi chen ra.
Cái khẩu phần đúp đó cũng là bấu từ khẩu phần của anh em, song không có ai kêu ca. Mỗi đội trưởng có quyền nhận khẩu phần đúp, anh ta có thể ăn, hoặc cho người phụ tá của mình.
Turin cho Pavlo xuất này.
Lúc này nhiệm vụ của Sukhov là lách tới một cái bàn, đuổi hai thằng đang mót đồ thừa đi, nói khó với một bạn tù ăn xong rồi thì đi đi cho, dọn sạch một chỗ trên bàn đủ để anh đặt mười hai cái bát sát cạnh nhau, rồi chồng thêm sáu cái nữa lên trên, và trên cùng chồng hai bát. Bây giờ phải đón những bát cháo từ tay Pavlo. Anh phải đếm lại một lượt nữa và canh chừng không cho mấy tay đội khác thuổng cháo đội mình, hay lấy cùi chỏ huých đổ. Ngay bên cạnh, người đứng lên, kẻ ngồi xuống ăn ào ào. Phải lấy mắt mà vạch rõ ranh giới, xem họ ăn bát của họ hay ăn sang bát của đội mình.
Hai! bốn! sáu! - Tên bếp đếm ở đằng sau cửa tò vò. Hai tay hai bát, hắn phát liền một lúc.
Như thế dễ cho hắn hơn, đếm bát một hay bị nhầm.
- hai, bốn, sáu, - Pavlo khẽ đếm theo và anh cũng chuyển cho Sukhov hai bát một lúc, và Sukhov xếp bát lên bàn.
Tuy không đếm thành tiếng, nhưng Sukhov đếm kĩ hơn ai hết.
- Tám, mười.
Sao đến giờ Gopchik chưa đưa đội mình tới nhỉ?
- Mười hai, mười bốn... - trong bếp vẫn tiếp tục đếm.
Vừa đúng lúc đó trong bếp đã hết sạch bát. Nhìn qua đầu và vai Pavlo, Sukhov thấy tên bếp đặt hai bát cháo lên thành cửa, hai tay vẫn giữ lấy bát như đang nghĩ gì. Chắc hắn đang ngoái vào bên trong chửi mấy tên rửa bát. Cùng lúc ấy có người đẩy qua cửa tò vò vào cho hắn một chồng bát không. Hắn phải buông hai bát cháo ra để bê chồng bát vào.
Sukhov thôi không canh mấy bát cháo trên bàn nữa, quay lại, bước qua cái ghế dài, lôi hai bát cháo trên thành cửa tò ra và nói khẽ: “Mười bốn!”. Nói cho Pavlo nghe, chứ không phải cho tên bếp.
- Để lại, lôi đi đâu thế? - Tên bếp rống lên.
- Của bọn tôi, của bọn tôi, - Pavlo hét lại.
- Của các anh thì của, chứ đừng làm cho người ta đếm nhầm.
- Thì mười bốn rồi, - Pavlo nhún vai nói. Tự mình hắn chả bao giờ làm cái trò này, còn phải giữ uy tín của một đội phó chứ. Song hắn đã về hùa với Sukhov, vả lại đã có Sukhov rồi, có chuyện gì xẩy ra thì cứ đổ cho anh ta là xong.
- Tôi đã đếm mười bốn rồi! - Tên bếp nổi cáu.
- Đếm rồi, nhưng cháo chưa đưa, hai tay chả giữ khư khư ấy là gì.- Sukhov nói chõ vào. - Không tin cứ đếm lại, tất cả đang còn ở trên bàn đây này.
Sukhov quát trả lại tên bếp, song cũng đã nhìn thấy cặp Estoni đang tiến đến gần, anh liền ấn hai bát cháo vào tay họ, và còn kịp quay trở lại bàn, kịp đếm xem các bát cháo có còn nguyên tại chỗ không. Hoá ra đội bạn chậm chạp quá, chưa nẫng được bát nào, mặc dù chẳng có ai canh chừng cả.
Cả cái khuôn mặt đỏ gay của tên bếp lấp đầy khung cửa sổ.
- Bát đâu? - Hắn hỏi, giọng nghiêm nghị.
- Đây, nhìn đi! - Sukhov hét lên. - Đứng lùi ra ông bạn, để cho người ta nhìn - anh đẩy một người nào đó. - Hai này! - anh nhấc hai bát cháo chồng trên cùng lên cao. - Còn đây là ba bát nữa, bốn bát một hàng, đếm đi!
- Đội của các bố chưa đến hả?
Tên bếp nhìn Sukhov qua khuôn cửa tò vò. Cửa làm hẹp để mọi người khỏi nhìn được vào bên trong xem cháo còn bao nhiêu.
- Chưa, chưa đến, - Pavlo lắc đầu.
- Đội chưa đến mà đã lĩnh cháo, các bố làm trò gì thế hả? - Hắn cáu um.
- Họ đến kia rồi! - Sukhov kêu lên.
Và tất cả đều nghe thấy cái giọng oang oang của ông trung tá, như thể ông đang nói trên đài chỉ huy:
- Chen chúc nhau làm gì ở đây thế này? Ăn xong rồi thì phải đi ra lấy chỗ cho người khác vào với chứ!
Tên bếp còn cằn nhằn cái gì đó rồi đứng thẳng lên, và ta chỉ còn trông thấy hai bàn tay hắn qua lỗ cửa tò vò như lúc trước.
- Mười sáu! mười tám!
Và một xuất đúp - hai bát cuối cùng:
- Hai mươi ba. Xong! đội khác!
Những người trong đội len tới và Pavlo chuyển cháo cho họ, còn những người ngồi ở bàn bên thì anh phải đưa cháo qua đầu người khác mới tới được họ.
Vào mùa hè, mỗi ghế dài thường ngồi được năm người, mùa đông quần áo mặc to sù sụ, nên chỉ ngồi được có bốn, thế mà cũng không có chỗ để khuỳnh tay xúc thìa.
Nghĩ thầm trong bụng mình sẽ được một trong hai bát cháo vừa thuổng được, Sukhov bèn ăn vội xuất của mình. Anh co đầu gối chân phải vào bụng, rút cái thìa có ghi “Ust - Izma, 1944 ra, bỏ mũ xuống kẹp vào nách bên trái, rồi bắt đầu khuấy cháo.
Bây giờ phải để hết tâm trí vào việc ăn. Phải vét lòng bát cho thật sạch, đưa thận trọng vào miệng, lấy lưỡi đảo đi đảo lại. Song cũng lại phải ăn cho nhanh để Pavlo thấy hết mà đưa thêm cho bát nữa. Thằng cha Fechiukov lúc nãy đến cùng với cặp Estoni, đã chứng kiến vụ hai bát cháo thừa, đang đứng ngay trước mặt Pavlo. Hắn hau háu nhìn vào hai bát cháo đó và muốn Pavlo hiểu rằng hắn cũng phải được hưởng xuất đó, ít nhất là một nửa.
Tuy nhiên đội phó Pavlo trẻ tuổi, da ngăm ngăm, vẫn ăn bình thản. Nhìn nét mặt hắn không thể hiểu được hắn có nhìn thấy người bên cạnh hay để ý tới hai bát cháo thừa kia không.
Sukhov ăn gần hết bát cháo. Không biết có phải vì cái dạ dầy được chuẩn bị trước cho hai bát cháo hay không, mà ăn xong một bát anh vẫn chưa thấy no như mọi khi được ăn cháo mạch. Anh luồn tay vào túi áo, lấy nửa miếng cùi bánh tròn không bị lạnh cứng bọc trong tấm giẻ trắng, vét cho sạch những hạt mạch còn dính trong lòng bát và chung quanh thành bát, vun vào một chỗ. Được một miếng kha khá, anh lấy lưỡi liếm thật sạch, rồi lại vét lại lần lữa. Khi ăn xong, cái bát của anh sạch như đã được rửa, chỉ có điều mờ mờ, chứ không bóng lên như thế. Anh quài tay qua vai đưa chiếc bát cho mấy tên rửa bát, vẫn ngồi nguyên tại chỗ, mũ cắp nách.
Tuy Sukhov là người chớp được hai bát cháo, song Pavlo là người có quyền chia.
Pavlo bắt anh đợi thêm chút nữa cho tới khi hắn ăn xong. Hắn không liếm bát, mà chỉ lấy thìa vét sạch cháo, sau đó cất thìa và làm dấu thánh. Khi đó hắn khẽ chạm vào hai trong bốn bát cháo - bàn nhiều bát quá, không thể đẩy chúng được, - ra điều cho Sukhov đó là hai bát cháo của anh.
- Ivan Denisevich, anh lấy một bát, còn một bát đem đến cho Sezar.
Sukhov nhớ ra là phải mang một bát cho Sezar ở trên văn phòng (Sezar chẳng bao giờ hạ mình ngồi ăn ở nhà ăn, cả ở đây lẫn ở trại), - nhớ ra, song khi Pavlo chạm tay vào hai bát cháo, tim anh như ngừng đập: liệu Pavlo có cho mình cả hai bát không? Khi biết chỉ được một, tim anh đập bình thường trở lại.
Và bây giờ khi anh cúi xuống cái của kiếm được hợp pháp đó và bắt đầu ăn một cách có lí trí, thì anh chẳng còn cảm thấy những cú huých vào lưng của những người mới tới. Anh chỉ khó chịu không biết Pavlo có cho Fechiukov bát cháo thứ hai không. Fechiukov hơn người về tài bòn mót, nhưng không đủ gan tăm tia.
Ông trung tá hải quân Buinovski ngồi gần đó. Ông đã ăn xong từ lâu và không biết trong đội có cháo thừa, cũng không đếm xem có bao nhiêu bát còn lại ở chỗ đội phó. Đơn giản là ông đang thư giãn, đang ngồi sưởi ấm và không đủ sức đứng dậy đi ra ngoài trời rét buốt, hay trở lại chỗ nhà máy điện chẳng có lấy chút hơi ấm nào cả. Lúc này ông cũng đang chiếm chỗ của những người mới đến, giống như những người mà năm phút trước ông đuổi quầy quậy bằng cái giọng chói tai của mình.
Ông vừa mới vào trại và cũng vừa mới làm việc chung với mọi người, cho nên chính những giây phút này thực sự là những giây phút quan trọng đối với ông (mặc dù ông không biết điều đó) - những giây phút biến ông từ một sỹ quan hải quân to mồm, hách dịch, thành một tù nhân chậm chạp, thận trọng.
Chỉ có thế ông mới có thể qua được hai mươi nhăm năm trong trại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét