Giai cấp mới

Thứ Tư, 31 tháng 3, 2010

Nhân đọc một entry trên blog người Hà Nội

Trong công việc  nếu không có sự tham gia của lớp trẻ, mà phải là số áp đảo, thì chỉ mang tính chất xôi thịt. Tuổi trẻ sống bằng kiến thức và nhiệt huyết, lớp già sống bằng kinh nghiệm. Mà lớp tuổi từ 4, 50 đến lớp mấp mé nghĩa địa ở VN này kinh nghiệm có gì đáng để truyền cho con cháu ?

Thứ Ba, 30 tháng 3, 2010

Thực hư chuyện người Việt nhảy múa trong lễ tế Mã Viện

TuầnViệtNam.Net
Tác giả: THÁI AN
Bài đã được xuất bản.: 4 giờ trước

Trên một số diễn đàn tại Việt Nam gần đây xôn xao chuyện đoàn biểu diễn nghệ thuật Việt Nam sang Trung Quốc, trình diễn trong lễ tế Mã Viện (người Trung Quốc tôn là Phục Ba Tướng quân).

Nhiều người bày tỏ sự lo lắng, thậm chí quy trách nhiệm và chỉ trích việc tại sao đoàn nghệ thuật Việt Nam lại biểu diễn trong lễ tế một vị tướng Trung Quốc đã đánh bại cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sát hại nữ anh hùng dân tộc Việt Nam. 

Tàu sỉ nhục quốc kỳ Việt Nam

Lá cờ đỏ sao vàng đã được Tàu thiết kế thành mẫu đồ lót năm 2009.

Còn gì để nói nữa không ?

Chủ Nhật, 28 tháng 3, 2010

Trưng Nữ Vương - thơ Ngân Giang

Thù hận đôi lần chau khóe hạnh;
Một trời loáng thoáng bóng sao rơi.
Dồn sương, vó ngựa xa non thẳm,
Gạt gió, chim bằng vượt dặm khơi.

Thứ Năm, 25 tháng 3, 2010

Chính quyền Việt Nam tham gia lễ tế Mã Viện ?

Sáng nay đọc trên trang anhbasam.com thấy một tin giật mình:
“Ngày 21.3.2010, khi cả nước nhộn nhịp tổ chức Lễ hội kỷ niệm 140 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng thì “nước lạ” kế bên cũng tổ chức “Miếu Hội Phục Ba Tướng Quân” tại Đông Hưng (thành phố giáp giới với cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam). Nhưng đặc biệt là trong vài năm nay, cụ thể là từ năm 2008 đến nay “Miếu Hội Phục Ba Tướng Quân” có sự tham dự “âm thầm” của Đoàn Nghệ Thuật do chính phủ Việt Nam gửi sang.”

Thứ Tư, 24 tháng 3, 2010

Rau má xứ Thanh

Rau má
Mới nghe em chớ vội cười

Cây rau má - "Sâm" của người xứ Thanh *

Miền quê bão lụt nắng hanh

Vươn lên để sống chỉ nhành má thôi

Thứ Hai, 22 tháng 3, 2010

Công văn "lạ"

Chuyện kỳ cục
Tuoitre online
TT - Để vận động bán vé cho một chương trình văn nghệ đang diễn ra ở tỉnh nhà, UBND một tỉnh đã có công văn lạ lùng. Xin trích dẫn: “... UBND tỉnh đề nghị các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh vận động, khuyến khích công chức, viên chức đơn vị mua (không dùng ngân sách) các loại vé như sau:

Chưa "chín chắn" ở biên thuỳ

Sáng nay đọc VietNamNet, thấy bài: 
Quảng Ninh cho thuê đất rừng không nhằm tăng thu ngân sách?

Đại ý: "Lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh khẳng định, việc cho nước ngoài thuê đất trồng rừng không phải vì tăng nguồn thu ngân sách mà là để tăng độ che phủ rừng (?!) Và việc cấp phép đầu tư không quan niệm yếu tố trong hay ngoài nước".   

Cũng ngay trên tỉnh Quảng Ninh, cách đây 10 tháng TuanVietNam đã có loạt bài về việc lãnh đạo tỉnh QN cho TQ thuê đất dài hạn trên những vùng đất nhạy cảm, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh - quốc phòng.

Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2010

Những câu thơ trong trí nhớ: Mộng uống rượu với Tản Đà - Trần Huyền Trân

Mộng uống rượu với Tản Đà
Trần Huyền Trân
Cụ hâm rượu nữa đi thôi


Be này đã cạn hết rồi còn đâu !


Rồi lên ta uống với nhau


Rót đau lòng ấy vào đau lòng này...

Chuyến phà nhỡ nhàng - O' Henry

O. Henry 
Chuyến phà nhỡ nhàng
 (The ferry of unfulfillment)
 Dịch: Diệp Minh Tâm
Chàng từ Nome (1) đứng ở góc phố, vững như cẩm thạch, giữa cơn sóng triều nhân loại trong giờ tan tầm. Gió và mặt trời miền Bắc cực đã nhuộm anh đỏ-hồng. Mắt anh vẫn còn giữ ánh xanh biếc của những băng sơn.

Những câu thơ trong trí nhớ: Sông Thao - Nguyễn Duy

Quá một nửa đời đi đã nhiều, ở lắm nơi. Sống trong nhiều môi trường: Sinh viên, quân đội, tù tội, công trường... cộng với bao năm lăn lóc đầu đường xó chợ, không thể nhớ hết đã gặp bao người, đã có bao mối quan hệ. Có những người khi ở gần thì thân thiết thế, vậy mà chỉ xa nhau 1 thời gian đã rất khó để mà hồi tưởng, có thể vì họ có những tính cách nhàn nhạt, có lối cư xử tròn trịa quá nên không để lại cho mình những kỷ niệm sâu sắc để mà nhớ? Và có người chỉ gặp, quen, gần nhau một thời gian ngắn ngủi rồi số phận bắt chia tay mãi mãi mà mỗi khi chợt nhớ, lại nhói lòng như bị một nhát dao đâm.

Một băn khoăn nhỏ

V.T.M.
Một điều khiến tôi băn khoăn lâu nay mà không dám nói ra, nay xin mạnh dạn đề xuất, thiết tưởng cũng có chút bổ ích cho các vị lãnh đạo đang dành tâm huyết chọn lựa những mục tiêu cao cả của Đại hội Đảng sắp tới: Trong bao nhiêu lần đại hội, có khi nào Đảng thực hiện được đúng chỉ tiêu, kế hoạch của mình?


Cũng giống như các bạn trẻ bây giờ, năm 1976 lúc đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, tôi còn rất trẻ. Tôi đã hết lòng tin tưởng. Khi đó Đảng có kế hoạch đưa Việt Nam hoàn thành công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và bắt đầu xây dựng Chủ Nghĩa Cộng Sản sau 25-30 năm, tức năm 2005, năm mà Liên Xô sẽ hoàn thành công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Cộng Sản. Thậm chí sẽ sớm hơn.
Năm 2009, có lẽ hầu hết các thành viên trong Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IV đã chết. Chẳng có ai lên tiếng phân tích thật khách quan về những gì đề ra trong kỳ Đại hội thuở ấy và kết quả của nó.
Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2010-2015 cho đại hội Đảng XI đang được soạn thảo có tầm nhìn đến tận năm 2030. Khi đó e rằng chỉ các bạn rất trẻ còn sống và có thể bình luận.
Nếu kể từ công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo năm 1985, thu nhập bình quân đầu người Việt Nam lúc đó xếp thứ 139 thế giới.
Sau 25 năm xây dựng và phát triển, năm 2009, thu nhập bình quân đầu người vẫn ở vị trí 139 của thế giới !!!

Thứ Sáu, 19 tháng 3, 2010

Tưởng nhớ nhà thơ Hữu Loan

Hồi 19 giờ ngày 18-3-2010, thi sĩ Hữu Loan, tác giả bài thơ nổi tiếng “Màu tím hoa sim”, thành viên phong trào Nhân văn - Giai phẩm, đã từ trần tại nhà riêng ở thôn Vân Hoàn (xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa), thọ 95 tuổi.
Tưởng nhớ Ông, một thi sĩ tài hoa mà lận đận, một nhân cách lớn, tôi xin đăng lại một bài viết của ông.


HỮU LOAN : TỰ PHỎNG VẤN

Phóng viên: Từ mấy chục năm nay trong dân gian và trong văn học thường hay nói đến “Nhân văn-Giai phẩm”, đến “vụ án Nhân văn-Giai phẩm” như là một chuyện gì ghê gớm lắm mà những người đã tham gia vụ ấy là những tên đầu trộm đuôi cướp, lừa đảo không thể dung tha được, những bọn cặn bã xấu xa nhất của xã hội ta. Nhưng trong thực tế thì thơ, nhạc của họ đều được nhân dân truyền tụng ngầm rồi đến công khai, cấm cũng không xong, càng ngày càng lan tràn. Ngay cả đến nhà nước lại cũng đã tuyên bố phục hồi cho họ, in lại thơ, lại nhạc. Như thế là trước kia không phải họ sai mà nhà nước sai hay sao ? Nếu nhà nước sai thì làm gì còn có “vụ án Nhân văn” ? Có sai mới có án, mà đã không thì cái gọi là “vụ án Nhân văn” là một vụ oan. Nhưng mới gần đây vẫn có người trịnh trọng tuyên bố “vụ Nhân văn” là một vụ án. Chúng tôi là những người cầm bút chuyên môn mà vẫn thấy mâu thuẫn khó hiểu, huống hồ người dân thì lâu nay chỉ được thông tin một chiều … Họ thắc mắc hỏi chúng tôi, chúng tôi rất lúng túng không giải thích nổi. Vậy thì thưa ông Hữu Loan, ông đã là người trong cuộc, xin ông giảng lại cho: Thế nào là “Nhân văn” ? Thế nào là “Vụ án Nhân văn” ?
Hữu Loan: Tất cả mọi cái này, tôi đã có ý kiến đầy đủ trong bản kiểm điểm của tôi ở trại chỉnh huấn Nhân văn. Các anh nên đến qua Công an Hà Nội tìm đọc thì hơn.
Phóng viên: Bác ngại sao ?
Hữu Loan: Cũng ngại chứ !
Phóng viên: Vì sao vậy ?
Hữu Loan: Vì tuổi tác cũng có. Nhất là vì mới đây thấy hưởng ứng lời kêu gọi tự do báo chí, Nguyên Ngọc chỉ cho đăng số bài của các nơi gửi về mà đã bị kết tội là sai phạm lệch lạc nghiêm trọng hơn nhiều, rồi hết cuộc họp này đến cuộc họp khác, để kiểm điểm, để bàn cách đối phó. Nhưng dù sao, khắp nơi các báo chí đều dám lên tiếng ủng hộ Nguyên Ngọc. Còn hồi tôi về thì không một người bạn nào dám đến đưa chân ngay ở nhà chứ đừng nói ra ga, mặc dù có những bạn tôi đã đấu tranh cho được vào biên chế, được vào Hội Nhà văn mà mới cách đây vài năm đi công tác qua nhà tôi cũng vẫn còn sợ liên quan không dám vào. Họ đều đổ cho là tại chế độ, tại tình hình. Nhưng nếu chế độ là chế độ thì người cũng phải là người chứ. Cái gì cũng có giới hạn của nó. Đấy là bè bạn, là người ngoài. Ruột thịt đối với tôi còn tàn nhẫn hơn nhiều. Những năm 1943, 1944, 1945, Nhật đánh Pháp ở ta dữ dội, trường tư tôi dạy phải đóng cửa, tôi về quê vừa làm ruộng, đánh cá để nuôi bố mẹ và để hoạt động Việt Minh bí mật. Mấy năm ấy đói to. Bố mẹ tôi vẫn phải nhịn cháo rau cho cán bộ Việt Minh bí mật về ăn. Những người cùng ở ban khởi nghĩa với tôi làm to cả, gia đình nào bố mẹ cũng sung sướng, nguyên tôi lại về. Mẹ tôi buồn ốm chết. Bố tôi chửi tôi:“Mày làm Việt Minh chặt hết của tao một giặng tre để rào làng, rào giếng. ”Các cháu trong nhà trong họ không đứa nào không chửi: “Ông về là đúng! Trời làm tội ông. Lúc ông phụ trách 4 ty còn ai nhiều chức hơn ông mà con cháu chả đứa nào được nhờ. Ông cho trong huyện hơn bốn mươi người ra làm giáo viên, con cháu xin thì ông bảo: ‘Chúng mày rồi hẵng.’ Ông chỉ toàn khuyên các cháu đi bộ đội. Nghe ông, bốn đứa xung phong đi, giờ còn có một đứa về … Hồi Việt Minh còn đang bí mật, ông đứng ra lãnh gạo, muối, diêm về phát cho dân. Ông phát cho dân trước, đến lượt ông và con cháu ông lần nào cũng hụt, có lần hết sạch. Bây giờ ông coi họ lãnh sữa bột, dầu cải của quốc tế cho trẻ em, họ chia nhau trước, đến lượt trẻ em thì hết. Không ai dại như ông. Khi ông có tiêu chuẩn xe con, đi các huyện khác thì ông còn đi xe con chứ khi nào về huyện ta ông toàn đi xe đạp, trong khi những người không có tiêu chuẩn xe, họ mượn xe của ông để về vênh váo với làng nước. Ông bảo ông làm cách mạng, để cho cả làng được đi học. Khi cách mạng thành công thì thằng con ông thi đại học đậu thừa điểm đi nước ngoài họ không cho đi ngay cả trong nước và chúng đã thay vào chỗ con ông một tên Cường không đậu, tên na ná với tên con ông là Cương. ” Có đứa nó như phát điên và nó đã chửi tôi: “Ông là loại ngu nhất. Ông bảo ông mẫu mực, cái mẫu mực ấy đem mà vứt cho chó ăn. Chả đứa nào nó thương ông. Ông tự làm khổ ông lại làm khổ lây đến con cháu …” Mỗi lần như thế tôi phải đấu dịu với chúng: “Thôi tao van chúng mày, nếu mẫu mực mà lại được ngay ô tô nhà lầu thì chúng tranh chết nhau để làm mẫu mực chứ chả đến phần tao. Ngay ngày 2/9, bên xã mổ thịt bán tự do cho dân về ăn Quốc khánh, tao biết thân phải đến rất sớm mà cũng chả đến phần. Những ông Đảng ủy, Ủy ban v.v… được mua trước, đến mình thì hết phần…”
Phóng viên: Như vậy là bác chán không muốn nói đến chuyện “Nhân văn-Giai phẩm” nữa ?
Hữu Loan: Ai mà chả phải chán. Mình đấu tranh cho họ, bênh vực họ, khổ vì họ, họ lại đè mình họ chửi, họ oán. Những kẻ gây tai họa cho họ, họ lại cho là đúng, là gương để cho họ noi theo.
Phóng viên: Xưa nay bác vẫn là người nói thẳng, nói thật, lúc trẻ bác còn dám nói, giờ già rồi không lý nào bác lại sợ, lại hèn ?
Hữu Loan: Anh kích tôi đấy phỏng ? Tôi là người không bị động bao giờ.
Phóng viên: Cháu không dám hỗn thế đâu, nhưng đây là một vấn đề của lịch sử, trước sau rồi cũng phải đưa ra ánh sáng. Chỉ có bác là người trong cuộc, bác giúp cho bọn cháu thì nó cụ thể hơn, sát hơn, để các cháu có thể hiểu được những cái vô cùng rắc rối của giai đoạn xã hội hiện nay…
Hữu Loan: Thực ra nếu bên Liên Xô không có Khrushchev lật Stalin, đưa ra phong trào chống sùng bái cá nhân thì bên Tàu không làm gì Mao Trạch Đông đưa ra chuyện “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng” và bên ta hưởng ứng tức thời bằng phong trào mang tên dịch lại nhãn hiệu Trung Quốc “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Tên nôm na của ta là “Chống sùng bái cá nhân”. Trước đó thì ở ta có hiện tượng rất phổ biến này: Khi gặp nhau, trước bất cứ câu đối đáp nào đều phải có nhóm thành ngữ “ơn Đảng ơn Bác” đứng đầu. Thí dụ: “Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không ?” “Dạ, ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi, ơn Đảng ơn Bác tôi mới xuất viện được 2 hôm nay.” “Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì…” Sau hàng tháng phát động đấu tranh kiểm điểm ở từng cơ quan để bỏ chữ Bác đi và thay thế bằng: “Ơn Đảng ơn Chính phủ”: “Ơn Đảng ơn Chính phủ vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp không ?” “Ơn Đảng ơn Chính phủ nhà em có con lợn mới độ 30 ký đang lớn, thanh niên cờ đỏ vào bắt nợ rồi, được bao nhiêu thóc đong hết sạch mà còn thiếu phải bù bằng lợn…” Dân tộc Việt Nam là một dân tộc liên tiếp bị đô hộ, hết Tàu đến Tây, đến Nhật, đến Mỹ… Cái khao khát, cái đói cố hữu của dân tộc này là đói độc lập, tự do, cơm áo. Khi thấy Đảng hứa đem lại những thứ ấy cho thì người dân tin tuyệt đối vào Đảng. Đảng bảo gì họ theo nấy, bảo phá nhà thì phá nhà, bảo bỏ ruộng thì bỏ ruộng, bảo bỏ bố bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ Trời bỏ Phật, bỏ được tất, còn dễ hơn từ bỏ đôi dép rách. Anh đội trưởng cải cách chỉ là một sứ giả của Đảng mà dân cũng đã tin hơn trời: “Nhất đội nhì trời”. Lòng dân tin vào Đảng không thước nào đo được, nên khi phát động để phủ nhận một điều gì Đảng đã chủ trương trước kia, thật là vô cùng khó khăn. Nguyên chỉ để thay đổi câu “Ơn Bác ơn Đảng” và kiểm điểm những việc làm trước kia có tính chất sùng bái cá nhân mà cũng mất hàng tháng phát động ở mọi cơ quan. Khẩu hiệu là “Nói thẳng, nói thật, nói hết để xây dựng Đảng!” Không những nói mồm mà còn viết lên các báo. Không những viết lên các báo nhà nước mà còn khuyến khích mở báo tư nhân để viết. Vì thế mới có Nhân văn, Giai phẩm của chúng tôi. Và Trăm hoa của Nguyễn Bính. Bài thơ “Màu tím hoa sim” của tôi (từ trước vẫn do dân tự tiện truyền tụng ngầm, bất chấp lệnh nghiêm cấm của những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai lần đầu tiên báo Trăm hoa. Nguyễn Bính còn cho thuê taxi có loa phóng thanh đi quảng cáo khắp Hà Nội là Trăm hoa số này có thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan. Mấy tháng sau tôi đi cải cách ruộng đất, làm bài thơ “Hoa lúa”, 22 anh em nhà báo nhà văn đi cải cách truyền tay nhau chép. Chị Bạch Diệp báo Nhân dân xin chép đầu tiên, nhưng ý trung nhân của chị là anh Xuân Diệu ở báo Văn nghệ không đăng, bảo là thơ tình cảm hữu khuynh, mất lập trường. Trần Lê Văn đến mách với Nguyễn Bính, Bính đến xin ngay bài “Hoa lúa” về đăng Trăm hoa. Anh Bính còn làm một cử chỉ rất hào hùng là đem đến trả cho vợ tôi 15 đồng nhuận bút, trong khi đăng Văn nghệ chỉ được 7 đồng. Anh bảo với vợ tôi:“Hữu Loan ở nhà thì tôi xin (tôi vẫn viết không lấy nhuận bút để giúp những tờ báo nghèo, mới ra) nhưng Hữu Loan đi cải cách chị cũng cần tiêu”, (15đ bằng 150.000đ bây giờ). Một chỉ vàng lúc ấy mới 20 đ. Nói ra điều này để thấy rằng mức sống của người cầm bút hiện nay đã vô cùng xuống dốc. Nhuận bút của cả một quyển sách hiện nay không bằng tiền của một bài thơ Nguyễn Bính trả cho tôi. Nhà thơ Tố Hữu đã có dự báo thiên tài: “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng!”Từ ấy đến giờ xuống dốc tuồn tuột không phanh, không thắng… Chính sự xuống cấp thảm hại trong đời sống đã là nguyên nhân chính trong việc lưu manh hóa một số nhà văn, họ đã phải uốn cong ngòi bút, cũng như trong việc in sách đen sách trắng vừa rồi.
Phóng viên: Xin bác cho biết lại về vụ “Nhân văn”.

Hữu Loan: “Nói thẳng nói thật, nói hết, để xây dựng Đảng”. Không những chỉ có Nhân văn hay Trăm hoa mới nói thật, mà cả nước nói thật. Cả nước kêu oan. Những “Ban Giải oan” đã thành lập để vào trong các nhà tù giải oan cho hàng vạn người bị cải cách quy oan…. Nhưng đã ăn thua gì. Đơn từ kêu oan từ các nơi gửi về tòa soạn Nhân văn thật đã cao bằng đầu, như “đống xương vô định”. Nhân văn đã xếp thành văn kiện chuyển cho Trung ương Đảng nghiên cứu để thay đổi chính sách. Thật ra Nhân văn chỉ khái quát tình hình để đúc thành lý luận. Bài báo bị cho là phản động, phản Đảng, phản dân nhất của Nhân văn là bài “Vấn đề pháp trị” do Nguyễn Hữu Đang viết. Trong bài ý nói: sở dĩ chỗ nào cũng có áp bức chà đạp lên con người là vì chưa có pháp luật rõ ràng. Tòa án là một tòa án tha hồ tùy tiện còn hơn Tôn giáo Pháp đình của giáo hội La Mã hồi Trung Cổ. Muốn bắt ai thì bắt, muốn xử ai thì xử, bịa ra luật nặng nhẹ tha hồ để xử… Bài báo kêu gọi cần phải phân quyền thì người dân mới có bình đẳng trước pháp luật… Sau hơn ba mươi năm do tình trạng pháp luật tùy tiện mà xã hội xuống cấp một cách tệ hại như hiện nay. Vấn đề hàng đầu đang đặt ra để giải quyết cũng là mấy vấn đề pháp trị mà Nguyễn Hữu Đang đã đặt ra cách đây hơn 30 năm (mà phải nói đây là vấn đề sống còn của chế độ). Không có một cộng đồng nào mà thành viên nào cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng lớn như một huyện mới có độ 5 - 6 tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế, mà dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ thì chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp được? Một vấn đề nữa Nhân văn đặt ra là “Vấn đề Trần Dần” đăng trong Nhân văn số 1, có chân dung Trần Dần to tướng với một vết dao lam cứa cổ to tướng do danh họa Nguyễn Sáng vẽ Từ trước ai cũng một lòng tin Đảng, cả trong lĩnh vực văn học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có chứ không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: Không có ăn cắp mới lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ, của một chế độ khổng lồ! Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn. Đường lối đó ở ta đã được ông Trường Chinh tiếp thu và bảo vệ, và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc. Một người nhà báo hỏi ông: “Như vậy là Cách mạng đã cấm tự do ngôn luận.” Ông Trương Chinh sửng sốtAnh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc đó thôi.” Như thế là đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa đã cấm hẳn hiện thực phê phán là thứ vũ khí sắc bén nhất của báo chí để cải tạo kịp thời xã hội. Lý luận hiện thực xã hội chủ nghĩa này được học tập ráo riết trong quân đội, trung tâm đào tạo những tông đồ để áp dụng và đi phổ thuyết về “con đường đi lên” là Tổng cục Chính trị lúc bấy giờ do ông Nguyễn Chí Thanh làm Tổng cục trưởng và ông Tố Hữu làm Tổng cục phó. Trong số văn nghệ sĩ phản đối đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa có Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Tử Phác… Có lẽ quyết liệt nhất là Trần Dần, nên Trần Dần bị bắt giam và trong nhà giam Trần Dần đã dùng dao lam cắt ven cổ nhưng chỉ toác da, chưa đứt đến ven thì đã kịp thời chặn lại. Vì thế mà có bài “Vấn đề Trần Dần” trong Nhân văn số 1 như đã nói trên. Đây là một vấn đề văn học, hoàn toàn văn học. Đây là một cử chỉ khí tiết của nho sĩ Việt Nam trước cường quyền không bao giờ là không có, dù cường quyền có thiên la địa võng đến đâu thì cái truyền thống đáng tự hào ấy, cái hồn thiêng của sông núi ấy không tà khí nào làm mờ nổi. Trần Dần chỉ là hậu thân của những người đã viết “Vạn ngôn thư”, “Thất trảm sớ”… Cũng như vấn đề pháp trị của Nguyễn Hữu Đang, vấn đề văn học mà Trần Dần đòi xét lại cách đây hơn 30 năm hiện giờ vẫn đang rất là thời sự. Cái tai họa lớn nhất hiện giờ vẫn là do khuyến khích tô hồng, đề cao người giả, việc giả, hàng giả… Những người thấy trước tai họa, chân tình muốn ngăn chặn tệ nạn xã hội tô hồng thì bị gán ngay cho cái tội bôi đen. Đáng nhẽ những người như Nguyễn Hữu Đang và Trần Dần phải được một giải thưởng quốc gia, một cái giải vinh quang là đã đưa ra được giải pháp để cứu nguy cho dân tộc. Nhưng trái lại, lại vu oan giá họa, đặt lên đầu họ cái án gọi là “án Nhân văn”. Thực ra Nhân văn hưởng ứng lời Đảng gọi: “Nói thật, nói thẳng, nói hết để xây dựng Đảng”, và chỉ đấu tranh cho tự do báo chí, tự do ngôn luận mong thực hiện tự do bầu cử vào quốc hội, vào chính phủ. Chỉ cần thực hiện thật sự dân chủ nội dung của Hiến pháp là cũng đã lý tưởng rồi. Hiện nay báo Văn nghệ cũng đang làm cái việc như Nhân văn ngày xưa làm, cũng do được kêu gọi, được giao trách nhiệm Nguyên Ngọc mới dám làm, và báo Văn nghệ cũng đang bị khép tội là mắc những lệch lạc nghiêm trọng. Có điều khác là: Nhân văn ngày xưa đơn độc, khi bị đánh không ai dám bênh, ngậm cái miệng cúi đầu mà mang án. Còn bây giờ thì hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đã khác. Không thể đóng cửa mãi ở trong nhà và ngủ yên được mãi trên những sai lầm vô định. Khi Nguyên Ngọc bị đánh, đã có báo chí khắp nơi lên tiếng, những bản kiến nghị đang tiếp tục gửi về… Nếu phong trào tự do báo chí, phong trào ủng hộ Nguyên Ngọc và báo Văn nghệ mà bị dập, tức là bọn quan liêu cơ hội thắng thế, kết quả là xúc tiến sự sụp đổ toàn diện, sự tổng khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị và uy tín của Đảng sẽ bị mất hoàn toàn vì bọn chúng. Quần chúng sẽ mất hết tin tưởng vào Đảng. Từ trước tới giờ: làm sai cũng là bọn cơ hội, kêu gào sửa sai cũng là chúng, rồi đàn áp sửa sai cũng lại là chúng. Khi sai quá rồi không sửa thì dân không chịu nổi phải nổ. Nhưng sửa đến triệt để thì cháy nhà lại ra mặt chuột, nên cứ nửa chừng thì lại đàn áp sửa sai; chúng vu cho những người đã từng làm theo chúng tội rất nặng, càng nặng thì quần chúng càng dễ quên tội của chúng và cho rằng những rối loạn trước kia là do âm mưu bọn sửa sai gây ra. Chúng bàn nhau mưu kế dựng chuyện theo bài bản, những ông trên không sát cũng phải tin như thật. Chính Nguyễn Hữu Đang đã rơi vào trường hợp như vậy. Đang là người giác ngộ cách mạng sớm. Anh là linh hồn của Hội Truyền bá Quốc ngữ mà cụ Nguyễn Văn Tố là danh nghĩa. Dựa vào Hội Truyền bá quốc ngữ, Nguyễn Hữu Đang đã hoạt động cho mặt trận Văn hóa Cứu quốc. Những nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, đều do Đang tổ chức vào mặt trận. Khi chính phủ vào Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang là trưởng ban tổ chức lễ Tuyên ngôn Độc lập, sau làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên. Khi rút khỏi Hà Nội năm 1952-1953 vào Thanh Hóa, Nguyễn Hữu Đang là Tổng thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, Trung ương cho xe vào Thanh Hóa mời Đang ra, muốn nhận bộ trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt Đảng, anh đều khước từ. Tôi hỏi vì sao, anh bảo: “Nội bộ thiếu dân chủ trầm trọng, mình bây giờ chỉ một mình một Đảng.” Sau hỏi anh làm gì, anh xin về làm nhà in, trình bày cho báo Văn nghệ. Mãi đến gặp phong trào “Trăm hoa”, Đảng phát động cho viết báo tự do, lại cho mở báo riêng thì anh Đang mới ra làm Nhân văn. Anh Đang là một người rất có khả năng về chính trị cả về lý luận lẫn tổ chức, lại là một người rất hay giúp đỡ anh em và rất giữ lời hứa. Để một người có tài có đức như vậy thì bọn cơ hội hết đường xoay xở nên phải đánh. Một mặt phải phát động tố điêu dựng tội (như hồi cải cách dựng địa chủ) để đưa Nguyễn Hữu Đang lên thành phản động đầu sỏ. Một mặt sai điều động từ Thanh Hóa ra, từ các nơi về, hàng 6 sư đoàn để về vây thủ đô đề phòng bọn Nhân văn làm phản (trong khi Nhân văn chỉ mấy thằng đi kháng chiến về, đói rách trói gà không nổi). Việc điều động một lực lượng quân đội lớn như vậy mãi sau tôi về quê gặp những người ở trong các đơn vị ấy nói lại tôi mới biết. Khi học tập, dựng tội cho Nguyễn Hữu Đang xong, cả lớp học sát khí đằng đằng hò hét nào là tên Đang, nào là thằng Đang phản động đầu sỏ. Mọi người ký vào kiến nghị lên Trung ương Đảng đòi xử tội đích đáng Nguyễn Hữu Đang. Tôi là người duy nhất đã ký như sau: “Khi Nguyễn Hữu Đang hoạt động với tôi, tôi thấy Nguyễn Hữu Đang là người có tài, có đức, tội trạng mới đây của Nguyễn Hữu Đang tôi chỉ tai nghe, mắt không thấy, tôi không dám kết luận. Ký tên: Hữu Loan”. Thế là Nguyễn Hữu Đang bị kết án 17 năm tù, mới đi được 7 năm thì nhờ đâu có sự can thiệp của Nhân quyền Quốc tế nên anh được tha. Đáng nhẽ không thưởng, không giải oan cho Nguyễn Hữu Đang thì im quách đi cho nó xong, đừng nay gào mai gào “Vụ Nhân văn là một vụ án chính trị!”. Gào như vậy nhưng nếu có ai hỏi đến để tìm hiểu lịch sử thì lại bảo “Đó là vụ án đã qua, bọn Nhân văn đã nhận tội không nên nhắc đến nữa!”. Nếu không nhắc Nhân văn, sao người ta vẫn nhắc đến phát-xít, Hitler, đến Stalin, đến Pol Pot? Thậm chí bọn vua chúa hay Pháp Nhật Mỹ đã đi từ lâu rồi, mà bao nhiêu vụ ăn cắp cũng là do phong kiến đế quốc, bao vụ cưỡng hiếp phụ nữ trong cơ quan cũng là do phong kiến đế quốc, mặc dù những người thực hiện các vụ ấy đều thuần túy xã hội chủ nghĩa gốc Việt. Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông có cấm nói đến mình được mãi không, dù là những bạo chúa, những nhà độc tài cỡ quốc tế? Ngoài Nguyễn Hữu Đang còn có thêm những người này: Phùng Cung, tác giả truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” : 7 năm tù giam. Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm, bị nghi là cho Nguyễn Hữu Đang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7 năm mới tha. Giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức: 17 năm như Đang. Nhà nước xuất bản thì lúc nào cũng kêu lỗ, mặc dù in nhiều hơn Minh Đức mà trả quyền tác giả lại rất rẻ mạt. Nhà Minh Đức xuất bản Vũ Trọng Phụng, mời con gái của Phụng lên lĩnh nhuận bút mà còn bỏ tiền về Hà Đông xây mộ cho Vũ Trọng Phụng. Minh Đức định xuất bản Kiều để vào xây mộ cho Nguyễn Du nhưng bị bắt. Ngoài ra từ 1954 đến 1956 Minh Đức còn mua được ½ nhà in giá 30.000đ (bằng 150 cây vàng). Nhà Minh Đức làm ăn lời lãi như vậy mà ngoài anh ta ra chỉ có thêm vài người giúp việc. Còn những nhà xuất bản của nhà nước thì nhà nào cũng rất đông người làm mà chả được bao nhiêu việc, nhà nào cũng kêu lỗ, nhưng vẫn cứ cố bao nhiêu rơm cũng ôm.

Xưa nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có trách nhiệm với công việc ấy, công việc càng khó khăn, lớn lao trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện ngược đời. Một lái xe chẹn chết người muốn sửa sai không được, anh phải đi tù, phải tước bằng. Anh bác sĩ chữa bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và đi tù. Đấy là những người làm chết ít người. Còn những người cầm vận mệnh của cả nước đã làm cho đồng bạc mất giá hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường xí nghiệp phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu manh, cho 50% trẻ em mất dinh dưỡng, còn giết oan bao nhiêu người có tài, có đức, còn phá phách bao nhiêu công trình văn hóa lịch sử. Những con giun bị đạp gào lên: “Sai rồi!” thì họ rất bình tĩnh trả lời: “Sai thì sửa!” hoặc bất đắc dĩ phải sửa thì không sửa chân thành.
Họ vẫn núp dưới cờ Đảng để đi từ sai lầm tày trời này đến sai lầm tày trời khác. Họ đang làm cho dân không còn tin vào Đảng. Họ xúc phạm vào anh linh những đảng viên ưu tú đã nằm xuống. Họ coi thường những đảng viên ưu tú đang sống, đang không ngớt đấu tranh để thể hiện những tính cách vô cùng cao quý của người cộng sản cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, khổ trước sướng sau.

Một bài viết hay trên báo "lề phải"

Ba chàng Ngự lâm Việt và những người chỉ nhìn chân ghế


Tác giả: TRỰC NGÔN
Bài đã được xuất bản.: 8 giờ trước
 TuanVietnam.net
Quả thật, tuần này là một tuần mà những “hành động và phát ngôn ấn tượng” tăng vọt đến chóng mày chóng mặt. Bạn đọc chưa kịp hoàn hồn với hành động này thì đã bị choáng với phát ngôn nọ. Hành động và phát ngôn ấn tượng tuần này không sao liệt kê hết tất cả những “ấn tượng” mà chỉ xin luận bàn một vài điều. 
Người lãnh đạo có "tầm nhìn chiến lược" nửa thế kỷ
Đó chính là ông Nguyễn Văn Bình, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn, một tỉnh có diện tích đất rừng cho người nước ngoài thuê có lẽ lớn nhất hiện nay. Dư luận xã hội đang lên tiếng như một lời cảnh báo về những hậu quả có thể xảy ra khi cho người nước ngoài thuê đất trồng rừng. Nhưng khi phóng viên mang nỗi lo của xã hội đến hỏi ông Bình về việc kiểm soát hoạt động của công ty nước ngoài thuê đất trồng rừng 50 năm trên đất Lạng Sơn thì ông Bình thản nhiên trả lời: "50 năm nữa, ai làm thì người đó kiểm soát".
Câu nói "vô tư" của ông Bình khiến người đọc cứ thấy quen quen như đã nghe ở đâu rồi. Cố nhớ một chút thì nhận ra là đã từng nghe câu nói tương tự trong đời sống thường nhật của những người kém trách nhiệm với người khác hay với xã hội...
... Trách nhiệm đối với đất nước cũng giống như cuộc thi chạy tiếp sức. Tất cả vận động viên tham gia trong đội chạy đều phải cố gắng hết mình và phải hiểu rằng: không ai được ỷ lại hoặc dồn trách nhiệm cho người khác. Nếu không, dù những vận động viên trong đội chạy kia là những người chạy nhanh nhất thế giới, họ vẫn sẽ thất bại. Thế nên, nếu ông Phó Chủ tịch UBND Lạng Sơn để việc kiểm soát lãnh thổ của mình cho một ông Chủ tịch UBND Lạng Sơn của 50 năm sau thì có lẽ khi đó đến cả "một tấn" sơn cũng mất chứ nói gì đến "một lạng" sơn???
Chính vì tầm quan trọng mang  tính chiến lược quốc gia của những nơi mà các tập đoàn nước ngoài công khai "chiếm ngự " thông qua việc thuê đất trồng rừng mà ngày 10/3/2010, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã kịp thời chỉ đạo "Ủy ban nhân dân các tỉnh không được cấp giấy chứng nhận đầu tư mới và không ký hợp đồng cho thuê đối với các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản, đợi Chính phủ rà soát". 
Có ba chàng lính Ngự lâm... người Việt
Trong lúc một ông Phó Chủ tịch UBND tỉnh nói một câu quá "vô tư" như vậy thì có ba thanh niên Nguyễn Hùng, Ngô Khoa Bá, Lê Quang Long đã viết thư phản đối gửi tới Ban biên tập Tạp chí của Hội địa lý Quốc gia Mỹ khi phát hiện ra họ ghi chú sai về bản đồ Hoàng Sa.
Lời lẽ trong thư rành mạch, chính xác, kiên quyết và mạnh mẽ về chủ quyền lãnh thổ của đất nước. Ba chàng trai này cũng giống như hàng triệu chàng trai, cô gái ngày ngày vào internet. Sẽ không ai trách họ sao thấy chuyện sai kia mà không báo cáo với chính quyền. Nhưng với lòng yêu nước, họ đã tự giác lên tiếng.
Bức thư giống như một bản tuyên ngôn về chủ quyền lãnh thổ của người Việt Nam và bày tỏ mạnh mẽ ý chí bảo vệ lãnh thổ đất nước. Hành động tự giác của họ làm cho những ai còn lo ngại về lòng yêu nước của thế hệ trẻ suy nghĩ lại. Nhiều bạn đọc khi biết hành động của ba chàng trai kia đã nói: với truyền thống yêu nước và khát vọng độc lập, tự do của người Việt, chúng ta không chỉ có Hội nghị Diên Hồng của những bô lão trước kia mà còn có "Hội nghị Diên Hồng" của những nam thanh nữ tú ngày nay một khi đất nước lâm nguy.
Với lòng yêu mến và kính trọng, tôi muốn gọi họ là ba chàng lính Ngự lâm người Việt. Và bản chất của những chàng Ngự lâm là luôn luôn chiến đấu đến cùng cho lẽ phải và không bao giờ khuất phục. 
"Ông ơi, nhanh lên kẻo hết ghế..."
Giống như một cảnh trong phim Mỹ về Ngày tận thế, các con đường từ thành phố chạy ra ngoại thành kẹt cứng xe hơi. Nhưng đây là con đường hướng về đền Trần trong ngày lễ Khai ấn. Những ai ở trong những chiếc xe hơi trên con đường chen chúc dài dằng dặc kia? Chúng ta có thể dễ dàng trả lời: chủ yếu là cán bộ nhà nước vốn đã có ít nhiều quyền này chức nọ. Vì công chức quèn hay nông dân thì chẳng có mấy người có lý do đến đó trong cái ngày ấy.
Trước cảnh tượng này, Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc, Viện trưởng Viện Việt Nam học, đã phải kêu lên: "Hám tiền" và "mê quyền" xét cho cùng cũng là một thôi và xem ra ở cái vế thứ hai này, khát vọng còn cháy bỏng hơn nhiều. Điều này giải thích tại sao lễ Khai ấn đền Trần lại có lắm người háo hức đến thế".
Có lẽ vì mê quyền quá như Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc nói, nên họ lú lẫn tin rằng đến đền Trần trong ngày Khai ấn là hiển nhiên xin được một chức quan. Chẳng lẽ họ không có đủ nhận thức để hiểu rằng làm gì có Thánh có Thần nào phù hộ cho họ chuyện ấy. Nhưng vì tham quá, ham quá mà họ sẵn sàng làm mọi cách để có được thứ họ thèm khát.
Tôi đã từng chứng kiến lãnh đạo của một cơ quan văn hoá quỳ sụp trước trâu giấy, ngựa giấy, vàng mã, nhang nến... vái lấy vái để. Người viết sớ cho ông lãnh đạo này kể rằng ông ấy gạt khỏi tờ sớ tất cả những nội dung không liên quan đến việc ông ấy thăng quan tiến chức.
Lái xe của một ông vụ trưởng thì kể rằng: anh phải dậy từ hai giờ sáng để đưa thủ trưởng đi đền Trần. Vì đã có tuổi nên ông vụ trưởng lục sục mãi mà chưa ra khỏi nhà được. Bà vợ sốt ruột quá bèn gọi "Ông ơi, nhanh nên kẻo hết ghế". Xin thưa, bi hài thay, không phải hết ghế trong rạp hát, trong sân vận động quốc gia Mỹ Đình... mà là hết "ghế quan".
Những câu chuyện nói trên nghe xong mà cười ra nước mắt. Không nhẽ lẽ sống cả đời người chỉ là thế sao? Những cán bộ như thế thử hỏi mang lại cho dân cho nước những gì?
Lạy các Thần, các Thánh, con chẳng dám xin điều gì to tát. Con chỉ xin Thánh, Thần nói cho con biết những gì con đang hỏi. 
Làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ sẽ không được nói gì nữa
Ngài Thứ trưởng Bộ Nội vụ, ĐBQH TP. Hà Nội Nguyễn Tiến Dĩnh nói: "Với vai Thứ trưởng Bộ Nội vụ, bây giờ mình nói cái gì cũng có cái khó", rằng: "Bây giờ sang công tác ở Bộ Nội vụ rồi thì chịu, không nói được nữa vì dù sao thì cũng là người của Chính phủ. Nếu góp ý cái gì đó thì cũng chính là góp cho mình..."
Ông vừa dứt lời, tôi nghe thấy một tiếng "ồ" của công chúng. Dư luận nhận xét: đây là câu nói "bất hủ" nhất của một thành viên Chính phủ cho dù là Chính phủ nào từ đông sang tây, từ cổ đến kim và cách lập luận đó quả thực là có một không hai trên thế giới.
Ô hay, sao làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ lại "không nói được nữa" và thế nào là "người của Chính phủ"? Thế cán bộ của các bộ, nghành khác thì là người của ai?
Ở nước ta có một tình trạng là không ít người khi có được một vị trí nào đó trong cơ quan hay trong xã hội thì áp dụng một trong hai "thượng sách": Thượng sách thứ nhất là nói chung chung, chẳng động chạm đến ai, ai cũng thấy hài lòng. Dân ta vẫn lưu truyền câu chuyện về một cán bộ trong một cuộc họp góp ý lãnh đạo cấp trên. Khi được yêu cầu có ý kiến, anh ta đã phê bình lãnh đạo như thế này: "Đồng chí A (lãnh đạo) có một khuyết điểm duy nhất cần nghiêm túc rút kinh nghiệm là đã không chú ý đến sức khoẻ của mình và làm việc nhiều quá".
Thượng sách thứ hai là không nói gì cả. Mà có phải nói thì chỉ phát biểu một câu: "Tôi hoàn toàn nhất trí cao với ý kiến của lãnh đạo".
Cả hai "thượng sách" này không có cách giải thích nào khác ngoài cách phải nói rằng: những người đó lo cho lợi ích của cơ quan, của xã hội được một thì lo cho vị trí của mình đến cả trăm.
Chúng ta ai cũng biết rằng khi một người phát ngôn là lúc anh ta bày tỏ quan điểm và trí tuệ của mình. Những người càng có vị trí cao trong xã hội thì càng phải bày tỏ quan điểm và trí tuệ của mình để khai mở và dẫn dắt xã hội. Một người lãnh đạo không có quan điểm và trí tuệ hỏi còn có tác dụng gì cho xã hội nếu không muốn nói là vô tình làm chậm sự phát triển của xã hội.
Hơn nữa, một người có vị trí cao trong xã hội mà có những ý kiến sâu sắc thì ảnh hưởng đối với xã hội rất lớn. Nếu ý kiến đó là của một công chức quèn cho dù sâu sắc hay uyên thâm đến đâu cũng chẳng mấy khi được chú ý và ít tác dụng.
Vì vậy, tiếng nói thẳng thắn và có tư tưởng của những người có vị trí cao trong xã hội về những vấn đề của đất nước vừa là trách nhiệm của họ vừa là một giá trị lớn đối với sự phát triển của đất nước. Chỉ lấy ví dụ về tiếng nói thẳng thắn, tâm huyết và sâu sắc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp hay của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt về những vấn đề của đất nước để thấy tác dụng lớn đến nhường nào.
Còn theo cách lập luận của ông Nguyễn Tiến Dĩnh: làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ nói cái gì cũng khó, thì chắc ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ sẽ chẳng dám nói gì nữa? Hay nói cách khác là ông ta sẽ im lặng mãi mãi trước mọi vấn đề của đất nước. Nếu bộ trưởng như vậy thì nên gọi là bộ trưởng bộ gì đây??? 
Về những người suốt ngày chỉ nhìn xuống chân ghế
Trong Bàn tròn trực tuyến với nội dung bàn về nhân sự là những Uỷ viên Trung ương cho Đại hội Đảng lần thứ XI, nguyên Thứ trưởng, Tiến sỹ Mai Liêm Trực lên tiếng: "Tôi nghĩ bức xúc của cuộc sống đã đủ nhiều để những người phần nào nguội lạnh phải xem lại mình. Những cán bộ hôm nay đang được hưởng những thành quả mà nhiều thế hệ đã làm nên. Nhà cửa có rồi, lương bổng sống thế cũng tạm ổn. Lý do gì chúng ta phải lo thu vén cá nhân? Đến nỗi nào mà còn phải lo mất ghế của mình, để hàng ngày phải nhìn xuống chân ghế? Tại sao không có dũng khí như các thế hệ cha anh đã làm cho sự nghiệp này của Đảng và của dân tộc chúng ta".
Đây là một phát ngôn vô cùng ấn tượng và đầy trách nhiệm. Phát ngôn đó cho thấy một hiện thực mà người đời vẫn gọi theo cách nói chuyện võ thuật là thế "thu mình giữ ghế". Nhưng bây giờ cũng như mọi lúc, Đảng luôn luôn cần những Uỷ viên Trung ương của mình như những chiến sỹ tiên phong trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Trước kia, các đảng viên càng giữ vị trí cao trong Đảng càng phải đứng mũi chịu sào trước mọi khó khăn gian khổ của đất nước. Họ thật sự là những tấm gương chói ngời để xã hội tôn kính và biết ơn. Ngày nay, có những ông chỉ mới là chủ tịch huyện đã ung dung cưỡi một chiếc xe giá cả nghìn con trâu. Thế mới có thơ trào phúng mấy năm trước in trên báo nói về Chủ tịch huyện cưỡi nghìn trâu đi làm.
Có phải vì làm quan thời nay có quá nhiều bổng lộc mà có những ông vụ trưởng vợ giục chạy nhanh đến đền Trần không thì hết ghế? Với những cán bộ chỉ lo kiếm ghế, chiếm ghế và ngày ngày "chỉ nhìn xuống chân ghế" thì đất nước, nhân dân đợi đến bao giờ mới có thể ngước lên cao được??? 
80 triệu USD cho những chữ ký "gà mờ"
Vụ việc ông Stephen O'Grady, Giám đốc công ty SIH Investment Limited, vừa có văn bản gửi UBND TP. Hà Nội liên quan đến việc yêu cầu đền bù những thiệt hại do dừng triển khai dự án khách sạn SAS Royal Hotel trong Công viên Thống Nhất với cái giá gần 80 triệu đôla Mỹ đã làm choáng váng thậm chí bất tỉnh dư luận.
0 triệu đôla Mỹ với tỉ giá bây giờ ước khoảng 1.500 tỷ đồng. Chỉ một đề xuất "gà mờ" của một nhóm cán bộ tư vấn, chuyên gia hay gì gì đấy và những chữ ký "lơ đãng" của ai đó đã làm cho số tiền khổng lồ của nhân dân, của Nhà nước có nguy cơ rơi vào túi người khác.
Trong khi đó, biết bao việc nhân đạo, việc cấp bách đối với người dân thì chúng ta lại phải kêu gọi hảo tâm của những con người lao động chân chính trong xã hội thậm chí của những em học sinh tiết kiệm tiền ăn sáng để giúp đỡ những người khó khăn hay hoạn nạn.
Đến bây giờ, dư luận lại một lần nữa trở lại với câu hỏi đầy ngơ ngác trong suốt thời gian qua: Vì sao người ta lại có thể cho xây dựng những công trình kinh doanh như thế trong một công viên? Việc mà bất cứ nhà quản lý đô thị nào trên thế giới với sự hiểu biết cho dù hạn chế cũng nhận thức là không ổn.
Những chuyện như vậy xảy ra bởi cán bộ của chúng ta hoặc không hiểu biết hoặc quá tham lam hay vô trách nhiệm với xã hội. Bởi thế, chúng ta lại phải tiếp tục bàn về vấn đề lựa chọn con người cho vị trí lãnh đạo ở các cấp.
Ngoài vấn đề về môi trường hay cảnh quan, nhân dân đang quá đau đầu vì bỗng dưng phải mất đi một số tiền lớn như thế. Tiền đấy đâu phải của mấy ông cán bộ liên quan đến cái việc cho người ta xây dựng một công trình kinh doanh khổng lồ trong công viên. Tiền đó là tiền sinh ra từ mồ hôi, nước mắt và thậm chí là từ máu của nhân dân lao động. Mà nhân dân ấy, đang phải sống một cuộc sống còn nhiều thiếu thốn đôi khi không có đủ tiền để mua một vỉ thuốc kháng sinh.