Giai cấp mới

Thứ Ba, 4 tháng 1, 2011

Biên giới Việt - Trung & sự đối đầu Trung - Pháp vào thời kỳ chinh phục Bắc Kỳ

Charles Fourniau
(La frontière sino vietnamienne et le face à face franco chinois à l’époque de la conquête du Tonkin, Charles Fourniau, trong quyển Les Frontière du Vietnam, Pierre Bernard Lafont làm chủ biên, nxb Harmattan, Paris 1989, trang 85 103 – Trương Nhân Tuấn lược dịch)
Những vấn đề về biên giới giữa hai nước Việt Nam và Trung Hoa, cho đến năm 1874, thì chỉ liên quan đến hai nước này.
Nhưng bắt đầu từ hậu bán thế kỷ thứ XIX, những vấn đề nầy được lẫn lộn chung với các biến động kinh hoàng xảy ra ở Viễn Ðông, nguyên nhân từ sự đụng chạm với các đế quốc Tây Phương. Việc đụng chạm nầy tạo ra, trước hết một sự khủng hoảng tận gốc rễ lan tràn đến toàn vùng phía Nam sông Dương Tử của Trung Hoa trong các năm 60 và 70, thứ đến là sự thống trị của Pháp ở An Nam, và cuối cùng là sự suy thoái từng bước của quân đội Trung Hoa.
Các yếu tố địa phương cũng bị thay đổi lớn lao: Sự hiện diện những đảng cướp Tàu tại Bắc Kỳ cũng như việc đế quốc Pháp thay mặt An Nam về quân sự và ngoại giao đối với Trung Hoa.
Mặc khác, đường biên giới Việt Trung trở thành một trong những tuyến đầu cho sự đối chọi giữa hai thế giới hoàn toàn xa lạ nhau. Nó là mối quan tâm của các nước trong vùng cũng như những Ðế Quốc lo ngại cho việc cân bằng thế lực ở địa phương và thế giới.
Vấn đề biên giới, cũng như những vấn đề khác của Ðông Nam Châu Á, đã đi qua từ một  thời kỳ lịch sử nầy sang một thời kỳ lịch sử khác.
Nhưng việc đáng ghi nhận, mặc dầu với sự chấn động mãnh liệt đặc biệt của thời kỳ nầy, đường biên giới đã được thiết lập từ thời xa xưa giữa Việt Nam và Trung Hoa vẫn được giữ khá toàn vẹn, ngoại trừ một vài thay đổi nhỏ. Biên giới Việt Trung vì thế có được tính chính xác khoa học cũng như tính bó buộc của đường biên giới hiện đại.
Như vậy rõ ràng là sự xác định đường biên giới Việt Trung dưới thời thuộc địa đã không tạo ra một “biên giới thuộc địa”, có nghĩa là một đường biên giới bất kỳ được áp đặt do sự can thiệp từ bên ngoài, mà nó chỉ phản ảnh từ một thực tế lịch sử đã bắt rễ sâu xa.
Trong 10 năm, từ 1885 cho đến 1895, hai đối thủ (Pháp và Thanh triều), mỗi khi có dịp thuận tiện là thử tìm cách thay đổi biên giới để dành phần lợi về mình, lúc dựa vào thực địa, lúc dựa vào tương quan lực lượng. Cuối cùng hai bên thỏa thuận trên căn bản “giữ nguyên trạng”, chỉ có một vài thay đổi rất giới hạn về lãnh thổ.
Từ hiệp ước Philastre (15 mars 1874), tình hình không mấy thay đổi, đến hiệp ước Patenôtre và hiệp ước Thiên Tân vấn đề đổi mới hoàn toàn.
Hiệp ước Patenôtre tháng 6 năm 1884 đã đặt An Nam dưới sự bảo hộ của Pháp (trước đó Nam Kỳ “Cochinchine” đã bị nhượng cho Pháp); toàn bộ nước Việt vì vậy chịu sự bảo hộ của Pháp.
Tháng 6 năm 1885, dựa lên một công ước đã ký trước đó một năm, công ước Thiên Tân được ký kết nhằm kết thúc chiến tranh Pháp Hoa và qui định cho các đạo binh của Tàu ở Bắc Kỳ phải lui binh (việc nầy đã được nhanh chóng thực hiện). Công ước nầy cũng là bằng chứng cho sự công nhận của Trung Hoa về sự hiện diện của Pháp tại Việt Nam, có nghĩa là mối liên hệ thượng quốc – chư hầu giữa Trung Hoa và Việt Nam từ thế kỷ thứ X được chấm dứt vĩnh viễn.
Như vậy là nước Pháp thay mặt Việt Nam về mặt luật pháp cũng như hành động để cáng đáng những công việc liên quan đến biên giới của các vùng Quảng Ðông, Quảng Tây và Vân Nam . Bởi vì hiệp ước Patenôtre ghi rằng nước Pháp phải “bảo đảm từ nay sự toàn vẹn lãnh thổ của vua nước An Nam , bảo vệ nước nầy chống lại những gây hấn từ bên ngoài và phản loạn trong nước. Vì thế chính quyền Pháp có thể cho quân đội của mình đóng trên những phần đất An Nam và Bắc Kỳ (Tonkin) tại các địa điểm xét thấy cần thiết nhằm thực hiện quyền bảo hộ” (điều 15).
Từ đó nước Pháp phải phòng vệ ở vùng biên giới với Trung Hoa, việc nầy đặt ra giả thiết phải bình định và đóng quân trên vùng thượng du Bắc Kỳ. Ðây là một công việc rất khổ nhọc, phải cần đến 10 năm nỗ lực về chính trị và quân sự.
Tuy nhiên, văn bản của hiệp ước Thiên Tân chỉ nói về những vấn đề tổng quát. Nó dự trù thiết lập hai công ước phụ: một là về việc thương mại giữa Trung Hoa và Bắc Kỳ và hai là việc phân định biên giới. Ðiều 3 hiệp ước trên ghi rằng: “Trong một khoảng thời gian 6 tháng, các ủy viên của hai bên sẽ ra thực địa để nhìn nhận đường biên giới giữa Trung Hoa và Bắc Kỳ. Những người nầy sẽ cắm mốc ở mọi nơi thấy cần thiết để đường biên giới được rõ ràng...”. Nhưng thực tế thì việc phân định và phân giới cắm mốc kéo dài trên 10 năm, từ năm 1885 cho đến năm 1895. 
Những dữ kiện của vấn đề:
Có ba yếu tố chính đã đóng những vai trò quyết định trong diễn tiến của công trình xác định đường biên giới:
1. điều kiện địa hình và địa vật ở các vùng biên giới;
2. dữ kiện xã hội và chính trị phía bên Trung Hoa;
3. dữ kiện chính trị và quân sự phía người Pháp.
Ðể kiểm soát vùng thượng du, đặc biệt cần thiết cho việc phân giới, các đạo quân Pháp phụ trách việc nầy chạm trán trước tiên là điều kiện địa lý.
“Cái khó khăn của địa hình” do “cấu trúc hiểm trở của núi non” (J. Sion) và một sự xói mòn rất mạnh do mưa lũ, tạo thành vô số các sơn cốc và rãnh sâu, nhất là tại các vùng nham động (karstiques), tiếp theo là rừng rậm nhiệt đới, làm việc lưu thông của quân Pháp cực kỳ khó khăn, nhưng nó lại dễ dàng cho các lực lượng đối nghịch thiết lập sào huyệt. Mặc khác, vùng đất nầy rất nghèo, ít dân, (vài trăm ngàn dân cho một vùng đất lớn bằng một phần ba nước Pháp),  chỉ cung ứng cho đạo quân chiếm đóng một nguồn sống nghèo nàn. Việc tiếp viện cho đạo quân nầy vì thế rất khổ nhọc và rất hao tốn cho hậu phương xa xôi.
Thêm nữa, chính quyền bảo hộ còn thừa hưởng một tình hình chính trị không tốt đẹp.
Người ta đã biết rằng quyền lực của triều đình An Nam thì thường xuyên yếu ớt và chỉ cai trị gián tiếp tại các vùng thổ dân sinh sống. Những người thần phục vua An Nam là do liên quan huyết thống hay do sự qua lại của dân chúng cư ngụ tại Lào hay Trung Hoa.
Hệ thống xã hội ở đây sẽ không phi lý khi gọi là phong kiến – cho phép sự hiện hữu một khu vực rộng lớn, thần phục một dòng họ, mà thái độ của dòng họ nầy có thể đem lại sự thuận thảo hay chống đối đối với triều đình hay chính quyền bảo hộ. Như trường hợp của gia đình Ðèo Văn Trì, quyền lực của người này trải ra một vùng rộng lớn chung quanh Lai Châu, vượt qua các giới hạn biên giới cổ truyền giữa vương quốc An Nam và Trung Hoa. Sự xây dựng một hệ thống quyền lực khác ở ngoài vương quốc chỉ thành tựu nhờ ở một tập hợp phức tạp những thương lượng về ngoại giao và vận động quân sự, đã được triều đình An Nam thực hành từ hàng thế kỷ nay, và lần hồi các sĩ quan Pháp cũng áp dụng. Nhưng phải cần một thời gian nhiều năm để các viên sĩ quan trên thấu hiểu được những sự thật rắc rối và đặt ra các phương pháp chế ngự, chấm dứt phương pháp chinh phục cổ điển không những không có hiệu quả mà gây ra nhiều tốn kém.
Mặc khác, vào khoảng năm 60 của thế kỷ thứ XIX, một phiền phức khác đáng chú ý đó là sự xâm nhập của người Hoa.
Những thảm trạng xảy ra vào các thập niên 50 - 70 của thế kỷ 19 ở vùng Hoa Nam đã đem lại những hậu quả là làm rắc rối thêm cho vấn đề xác định đường biên giới 1885- 1895.
Các tỉnh phía Nam và Tây Nam của Trung Hoa đã không phục hồi sau các cuộc tàn phá dữ dội, đó là việc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc và của những người theo Hồi Giáo; sau đó là các cuộc đàn áp và truy quét của triều đình (1853-1878). Chỉ ở các tỉnh nầy thiệt hại nhân mạng lên đến hàng triệu người (ước lượng tổng quát là 50 triệu người chết). Hàng chục năm sau, có vùng thật rộng lớn hoàn toàn không có một bóng người ở. Việc nầy đem lại hai hậu quả:
Thứ nhứt là sự hiện diện chính quyền Trung Hoa ở vùng nầy rất mờ nhạt, vì thế việc kiểm soát biên giới không hữu hiệu, cho dù có nhiều quan chức tại đây rất muốn làm.
Thứ hai, quan trọng hơn, trên lãnh thổ Việt Nam , trong vòng một góc tư thế kỷ là cảnh thanh bình an lạc, người ta sẽ thấy ở đây sự cần thiết một đường lối chính trị về biên giới. Vì thế mà vùng thượng du Bắc Kỳ đã bị tràn ngập những nhóm người xa lạ đến từ bên Trung Hoa: đợt di cư của dân tộc Mèo lần thứ ba (và cũng là lần cuối cùng), dân số trên 10.000 người đến từ các tỉnh Quí Châu, Vân Nam và Quảng Tây; những nhóm vũ trang là những đầu lĩnh nổi loạn như Lý Hồng Choi (1878-1879), hay những nhóm nhỏ thuộc Thái Bình Thiên Quốc như giặc Cờ Ðen, Cờ Vàng v.v.. và cuối cùng là khối nạn nhân, những người khốn khổ, chạy trốn sự giết chóc và chết đói – hôm nay chúng ta gọi là dân tị nạn. Ðể sống còn, nhóm người nầy phải gia nhập vào các đảng cướp. Cuộc “nam tiến” nầy tạo thành những đoàn quân vũ trang hùng mạnh, tiến sâu cho đến cao nguyên Cammon ở Lào (ngang với Nghệ Tĩnh ở VN), được Pháp gọi dưới cái tên “invasion des Hô” – “sự xâm lược của quân Hồ”.
Có nhiều hậu quả xảy ra: phần lớn vùng thượng du Bắc Việt chạy dài cho đến phía bên kia rặng núi ở Trung Việt đã bị những nhóm vũ trang Tàu xâm chiếm, mà các nhóm nầy có những mối tương quan phức tạp với những quan lại phong kiến địa phương. Toàn vùng vì thế càng thêm nghèo khổ. Tuy nhiên, Trung Hoa thì hưởng phần lợi từ những việc nầy. Bởi vì quân cướp ở bên Tàu bị đuổi ra khỏi biên giới, Trung Hoa trút được một gánh nặng. Mặc khác, bọn nầy trở thành một lực lượng nhằm Hán hóa dân chúng ở Bắc Kỳ, như là một khả năng bành trướng thường trực của Trung Hoa (để đồng hóa những dân tộc khác). Việc nầy càng sâu sắc hơn qua hai vụ can thiệp quân sự do quân đội địa phương (Hoa Nam) tiến vào Bắc Kỳ lần thứ nhất để tảo thanh tàn quân của Ly Hồng Choi và lần thứ hai, theo lời kêu gọi của vua nhà Nguyễn (Tự Ðức) bắt đầu từ năm 1883 vì sự gây hấn của Pháp. Nếu biến động tổng quát nầy bắt nguồn trực tiếp từ việc hỗn loạn tại Hoa Nam vào tiền bán thế kỷ thứ 19, thì ta không thể bỏ qua một thực tế bao quát và sâu xa hơn, việc di dân xảy ra liên tục, từ thời tiền sử, do những khối dân chúng sinh sống trong vùng rừng núi Tây Nam đến Nam Trung Hoa, có nghĩa là trong bán đảo Ấn Trung (indochinoise - sự di cư của dân Tày).
Việc thành lập đường biên giới đã là kết quả của sự đụng độ trên thực địa Bắc Kỳ giữa hai đế quốc Pháp và Trung Hoa, dưới những điều kiện đặc biệt như sau:
*  Trung Hoa bành trướng trên vùng cao Bắc Kỳ, khởi đầu cho việc Hán hóa dân chúng. Sự việc các băng đảng Tàu đóng chốt lâu dài, sự việc rút quân của quân đội Trung Hoa cũng như quân giặc Cờ Ðen sau khi hiệp ước Thiên Tân được ký kết. Tham vọng của Trung Hoa cố giữ những phần đất càng nhiều càng tốt thuộc An Nam , việc nầy sẽ được thấy sau năm 1885. Việc thành lập đường biên giới hiện đại không những chỉ nhằm vào việc đảo chiều cho những sự việc quan trọng vừa xảy ra, đuổi về phía Trung Hoa những đảng cướp Tàu, mà còn chận đứng một luồng di dân cơ bản từ Trung Hoa xuống vùng Ðông Nam Á, đồng thời chuyển toàn vùng Ấn Trung sang một thời kỳ lịch sử khác.
* Một tình hình quốc tế phức tạp, bất lợi cho Trung Hoa hơn là Pháp. Vì việc chinh phục Bắc Kỳ và Trung Kỳ của Pháp đã được các đế quốc khác chấp nhận mà không có ngăn trở đáng kể. Trong bối cảnh ảnh hưởng hỗ tương và quyền lợi chính trị giữa các đế quốc, Pháp có nhiều thuận lợi hơn là trở ngại để mở mang thuộc địa. Hiệp ước Thiên Tân chấm dứt và ngăn chặn mọi khả năng can thiệp của các cường quốc Tây Phương vào vấn đề Bắc Kỳ.
Việc phân định biên giới vì thế đã được thực hiện giữa Trung Hoa và Pháp qua ba giai đoạn.
Sự phân định biên giới và công ước 1887.
Ban đầu cả hai chính phủ đều mong muốn công việc thực hiện mau lẹ và nghĩ rằng nó sẽ chấm dứt  nhanh chóng. Từ 14 tháng 8 năm 1885 có những công lệnh chỉ định nhân viên cho Ủy Ban Pháp phụ trách phân định biên giới và ngày 1 tháng 9, ông Patenôtre ở Bắc Kinh đã thông báo rằng các ủy viên Trung Hoa cũng đã được chỉ định.
Hai ủy ban họp tại Ðồng Ðăng (gần Lạng Sơn) từ tháng giêng đến tháng 4 năm 1886 để giải quyết biên giới vùng Quảng Tây, từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1886 tại Lào Cai cho biên giới Vân Nam và từ tháng 12 năm 1886 đến tháng 4 năm 1887 tại Móng Cái cho biên giới Quảng Ðông và biên giới trên biển. Nhưng thực tế công việc không đơn giản như mọi người đã tưởng ở Paris .
Ngoài những khó khăn về địa lý thiên nhiên, còn có thêm sự cản trở của tướng De Courcy, ông nầy từ chối không cung cấp lính bảo vệ cần thiết cho ủy ban. Trở ngại nầy do sự tranh chấp giữa các nhân viên một bên thuộc ngoại giao và một bên là quân đội. Cuối cùng trở ngại được giải quyết qua sự can thiệp của ông Freycinet, bộ trưởng bộ ngoại giao. Nó cũng hàm ý cho thấy thời đó chính phủ Pháp đã lựa chọn một đường lối chính trị là quyết định chiếm đóng toàn cõi Bắc Kỳ, thay cho một đường hướng chính trị khác. Tướng De Courcy và bộ chiến tranh Pháp chủ trương một sự chiếm đóng hạn chế, chỉ giới hạn trong vùng bình nguyên và vùng chung quanh, bỏ trống vùng thượng du là một vùng không người - “no man’s land”, và việc nầy sẽ có lợi cho các đảng cướp Tàu. Từ công ước Bourée cho đến chương trình thống trị toàn cõi nầy, cả một đường lối chính trị của Pháp đã được biểu lộ theo chiều hướng đó. Việc phân định biên giới đòi hỏi một sự chiếm đóng toàn vùng thượng du như được dự trù trong công ước Patenôtre 1884, việc nầy đã gây ra nhiều hậu quả đáng kể. Việc xây dựng những đồn trại ở các vùng Lạng Sơn, Lào Cai v.v... đã đặt ra vấn đề tiếp liệu cho các đoàn quân tại các nơi nầy. Việc nầy được thực hiện liên tục nhiều năm bằng những đoàn cu li cực kỳ tốn kém, nhân lực cũng như tài lực. Cũng như việc xây dựng đường xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn trở thành cần thiết trong khi ngân quĩ lại không có. Nhất là nước Pháp đã dấn thân trong lúc công luận tại đây lại đòi hỏi chấm dứt mọi cuộc động binh quan trọng và lúc chính phủ Pháp giới hạn ngân khoản cho đội quân viễn chinh vào việc đánh đuổi các đảng cướp Tàu đang chiếm đóng vùng thượng du. Việc đánh đuổi nầy kéo dài khoảng 10 năm, chiếm phần lớn lực lượng quân sự. Với hậu quả, sự đối cực của hai bên Pháp - Trung đã ảnh hưởng đến cả việc bình định các vùng dân cư  ở đồng bằng.
Phía bên Trung Hoa cũng vậy, sự xác định biên giới gây ra nhiều vấn đề chính trị phức tạp, đem lại từ những chống đối phe phái, những chống đối cá nhân hay đến từ sự mâu thuẫn của chính quyền địa phương và chính quyền trung ương. Ðiều 3 của hiệp ước Thiên Tân đã gợi ý về một khả năng, là nếu cần thiết, “chấp nhận những thay đổi nhỏ ở đường biên giới hiện nay ở Bắc Kỳ”. Phía Trung Hoa đã suy diễn chi tiết nầy như là một  dấu hiệu chấp nhận thay đổi đường biên giới, họ cho rằng đó là sự thỏa thuận đền bồi đất đai với việc nhượng bộ chính trị.
Lý Hồng Chương nói với tướng Rieunier rằng: “Nước Pháp đã đạt được nhiều quyền lợi khi có được Bắc Kỳ, xứ nầy là thuộc quốc của Trung Hoa từ 600 năm, và việc nầy là nhờ trung gian của tôi. Nó đã gây cho tôi nhiều phiền phức; tôi nghĩ rằng một sự đền bồi dưới dạng nhượng vài vùng đất nhỏ trên vùng biên giới là cần thiết”.
Lề lối chính trị “tiền trà nước” (pourboires) của Trung Hoa lần nữa được sử dụng và nó gây ảnh hưởng từ đầu đến cuối lên việc phân định biên giới cho tới năm 1887.
Thật ra thái độ của Lý Hồng Chương bắt nguồn từ nhiều yếu tố phức tạp, nhất là các vấn đề ở Miến Ðiện, ở Triều Tiên và những hoạt động của địch thủ chính trị, nhất là Trương Chi Ðộng, Tổng Ðốc Lưỡng Quảng. Vào lúc nước Pháp chiếm Bắc Kỳ thì cũng là lúc Anh Quốc đã hoàn thành việc chiếm đóng Miến Ðiện. Công ước Anh - Hoa về Miến Ðiện (và Tây Tạng) 24-7-1886 đã dự trù thành lập một ủy ban phân định biên giới. Tất cả những gì Tàu nhượng bộ cho nước Pháp sẽ có thể ảnh hưởng đến những thương thuyết sau nầy với Anh Quốc, ngược lại, tất cả những thành quả đạt được tại Bắc Kỳ sẽ là những ưu thế của Tàu đối với Miến Ðiện. Những vấn đề ở Miến Ðiện đã làm cho Lý Hồng Chương rất cứng rắn. Còn về phía biên giới với Triều Tiên, tình hình tại đây đòi hỏi phải kết thúc công việc liên quan biên giới phía Nam để tập trung một lực lượng quân sự lớn nhất có thể cho vùng Ðông Bắc, là vùng mà ông nầy có nhiều quyền lợi, vì ông đang làm Tổng Ðốc Tchi Li.
Nhưng Lý Hồng Chương không quyết định được tất cả. Nếu ông ta có thể giải quyết được nhiều vấn đề ở Bắc Kinh thì trên thực địa, dọc theo biên giới, chính quyền ở các địa phương có thể có một đường hướng chính trị khác. Riêng ông Trương Chi Ðộng, Tổng Ðốc Lưỡng Quảng, một đối thủ chính trị với Lý Hồng Chương, là một người điển hình chống triệt đễ chủ nghĩa đế quốc của các nước thực dân. Ông nầy đã thành công trong việc hủy bỏ hiệp ước Livadia ký kết với nước Nga đồng thời kết án người thương thuyết hiệp ước, (vì người nầy đã làm cho Trung Hoa thiệt thòi). Vì là Tổng Ðốc Lưỡng Quảng, ông nầy cũng đã cầm quân đánh với quân Pháp (1884-1885). Những bản tường trình Pháp cho thấy tại Quảng Ðông cũng có sự hiện diện của Lưu Vĩnh Phúc, chủ tướng giặc Cờ Ðen.
Những quan hệ giữa Pháp và Trung Hoa tại vùng biên giới Quảng Ðông vì vậy rất khó khăn. Mở đầu bằng một cuộc thảm sát, một nhân viên trẻ thuộc Ủy Ban Pháp cùng với nhiều người khác cùng đi với ông nầy, đó là ông Haitce, tại Hải Ninh, đối diện với Móng Cái ngày 25 tháng 11 năm 1886, đã bị giết chết. Người Pháp quả quyết đàng sau vụ sát nhân nầy là Trương Chi Ðộng. Sau đó là sự tranh chấp rất gay cấn một vùng đất gọi là “enclave annamite” và mũi Bạch Long (phía bên kia Móng Cái) (Bãi Tục Lãm bây giờ, và vừa mất cho Tàu cộng). Việc thương thuyết bế tắc và hai bên sắp sửa động binh. Bộ Ngoại Giao Pháp ( Quai d’Orsay ) bình thường ít hiếu chiến, lần nầy cũng tuyên bố không cho lính Trung Hoa tiến vào vùng đất đang tranh chấp, “nếu tất cả những biện pháp dùng cho việc nầy không kết quả, quân đội của ta phải chống lại quân thù”. Tướng Munier tổng tư lệnh quân đội chuẫn bị chiến tranh với Tàu và việc nầy không làm ông phiền lòng: “Nếu nước Pháp chấp nhận tốn kém đem lại do việc động binh (đánh Canton hay Bắc Kinh) để một lần là chấm dứt, thì đây sẽ là một quyết định tốt, vì cuối cùng tính ra sẽ ít tốn kém hơn, bởi vì chúng ta ở đây (Bắc Kỳ) chỉ cần một cuộc chiến tự vệ mà sự cần thiết về viện binh ít quan trọng”.
Dầu vậy việc thương thuyết vẫn được tiếp tục và một công ước về biên giới đã được ký kết tại Bắc Kinh vào ngày 26 tháng 6 năm 1887. Tại sao và trên căn bản nào ?
Trong lúc các ủy viên và các trắc địa viên làm việc trên thực địa thì tại Bắc Kinh, một viên Ðặc Sứ Pháp (Ministre plénipotentiaire) tên là Constans được gởi đến. Ðây là một người ảnh hưởng nặng chủ nghĩa cơ hội, được chỉ định để ký kết hai công ước phụ được dự trù trong hiệp ước Thiên Tân, đó là công ước về thương mại và công ước về biên giới. Ông Constans cùng lúc thương thuyết cho hai công ước với Lý Hồng Chương. Trên bình diện thương mại thì xét lại thỏa ước Congordan ký năm 1886, vì nó được xem là rất tệ hại ở Ðông Dương, và nhất là đạt được việc mở cửa vùng Hoa Nam cho hàng hóa Pháp đồng thời dựng hai tòa lãnh sự Pháp tại Vân Nam và Quảng Tây. Vì quyền lợi quan trọng về thương mại thúc đẩy mà Constans cố phải thành công trong việc thương thảo. Về phương diện chính trị cũng thế, nó bắt buộc ông Constans phải nhanh chóng kết thúc để trở lại vị trí của ông tại nghị trường. Trong những điều kiện như thế thì việc nhượng bộ sẽ phải ở về mặt lãnh thổ.
Công ước về phân định biên giới được ký ngày 26 tháng 6 năm 1887 chấp nhận như thế, việc bỏ rơi vài phần đất thuộc các vùng có sự tranh chấp giữa hai ủy ban. Hai phần đất chính: một là tổng Tụ Long, tiếp cận biên giới Vân Nam, vùng đất nầy hoàn toàn thuộc vương quốc An Nam mà ¾ của nó, tức vào khoảng 750 cây số vuông bị nhượng cho Trung Hoa; hai là vùng đất ở về phía cực Ðông của biên giới Quảng Ðông, mũi Bạch Long và “enclave annamite”, tức phần đất nằm trong lãnh thổ Trung Hoa nhưng toàn người Việt sinh sống. Nhưng việc nhượng đất nầy có tầm quan trọng bội phần: nó lấy đi một phần đất của An Nam và nó xác định đường biên giới trên biển và chủ quyền các đảo ven bờ: “những đảo ở về phía Ðông của đường kinh tuyến Paris 105° 43’ kinh độ Ðông, có nghĩa là đường thẳng Bắc Nam đi qua đông điểm của đảo Trà Cổ và làm thành đường biên giới thì thuộc về Trung Hoa...”. Từ đó không có một thỏa ước nào phải ký kết về vấn đề biên giới trên biển giữa hai nước Trung Hoa và Pháp.
Cuối cùng, có một phần biên giới chưa bao giờ được trắc địa. Ðó là vùng Phong Thổ, phía Tây Lào Cai, ở giữa sông Hồng và sông Ðà. Ðồ tuyến đoạn biên giới nầy chỉ được được thực hiện qua sự so sánh các bản đồ, sau đó được sửa đổi rất nhiều qua công ước 1895.
Ðường biên giới Việt Trung đã được xác định như thế. Có ba điểm đáng ghi nhận:
1/ Mặc dầu việc tranh cải rất gay gắt nhưng ảnh hưởng của nó chỉ rất giới hạn, chỉ du di vài trăm thước hay một hai cây số chiều sâu. Bởi vì hai bên không nhằm mục đích thiết lập một đường biên giới đã được thỏa thuận trước mà họ chỉ xác định và công nhận một đường biên giới lịch sử đã hiện hữu, nó được chứng minh bằng lịch sử lâu đời và bằng một lượng hồ sơ rất đáng kể (đặc biệt là tài liệu địa chí của các nhà truyền giáo Jésuites đã đo đạc ở bên Trung Hoa vào thế kỷ thứ XVIII).
2/ Sau cuộc chiến giữa Pháp và Trung Hoa thì luật lệ về biên giới cũng được hai bên chấp thuận, nhưng việc nầy đã không những không làm nguy hại đến sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Hoa, ngược lại nó đem lại cho nước nầy một vài thắng lợi về đất đai. Qua hiệp ước Thiên Tân, Trung Hoa đánh mất quyền thượng quốc (suzeraineté) ở Việt Nam . Nhưng tại Pháp, bị mắc bẫy trong việc phiên dịch, người ta đã quá thổi phồng sự quan trọng về ý nghĩa của danh từ “thượng quốc, suzeraineté”. Bằng chứng là nước Anh, thực tế hơn, vẫn để cho Miến Ðiện là chư hầu của Trung Hoa, nhưng không vì vậy mà nước nầy ít thần phục nước Anh hơn. Người ta cũng thấy rằng vào thập niên 80, mặc dầu với những tham vọng chiếm đất của các đế quốc thực dân, Trung Hoa không những vẫn giữ được toàn vẹn vùng Hoa Nam, mà còn đủ thực lực để chống chọi với kẻ địch và đạt những thắng lợi về đất đai. Trung Hoa thời cuộc chiến Lạng Sơn chưa phải là thời kỳ bị phân hủy.
3/ Sự phân định biên giới năm 1887 có rất nhiều thiếu sót. Kết quả cụ thể chỉ là một số bản đồ liên quan đến các vùng biên giới, những nơi có sự thỏa thuận hai bên về đồ tuyến của đoạn biên giới. Nhưng việc trắc địa thì được thực hiện quá nhanh chóng và không đầy đủ. Vấn đề còn phải áp dụng đồ tuyến trong bản đồ lên thực địa và cắm các cột mốc.
Sự phân giới
Toàn vùng biên giới Việt-Trung thì ở dưới sự kiểm soát của các băng đảng cướp Tàu. Việc đi lại của một nhóm nhỏ trắc địa viên trên vùng nầy trong một hai tuần lễ là một việc cực kỳ khó khăn, nếu không nói là vô phương. Sự cắm mốc vì thế đòi hỏi sự kiểm soát thực sự của nhà cầm quyền tại vùng nầy và việc loại trừ bọn cướp. Ðể đạt được kết quả, người ta phải mất nhiều năm dài với những nỗ lực hoạt động quân sự không ngừng nghỉ.
Công việc phân giới vô cùng khó khăn, thêm vào đó các viên sĩ quan trách nhiệm việc nầy lại không nắm vững được những ý nghĩa lịch sử của các vùng đất. Những việc họ quan tâm đến là các việc tức thời, như là làm thế nào để “bình định” vùng thượng du và đuổi các băng đảng, hay tìm hiểu thái độ của nhà cầm quyền Trung Hoa như thế nào. Ðối với các băng đảng thì có nhiều phương cách khác nhau đã được sử dụng. Từng đoàn quân đông đảo hàng ngàn người trang bị vũ khí nặng (như là việc chiếm lại Chợ Mới và Chợ Chu do tướng Borgnis Desbordes vào năm 1888), nếu việc nầy đã là nguyên nhân cho vô số những huân chương và văn thư khen tặng nhưng thực tế cho thấy nó vừa không cần thiết vừa làm đổ máu nhiều quá. Ngược lại quí ông Pavie (1888) và Pennequin, là những gương mặt quân sự phụ trách việc bình định vùng thượng du, họ không cần phải nổ súng mà cũng đạt được những kết quả quan trọng bằng thương thuyết. Cũng đã có những kết ước xảy ra như với Bá Kỵ và Lương Tam Kỳ, là những đầu lĩnh cướp Tàu, điều kiện trao đổi là phải cung cấp tiền bạc cho bọn nầy cũng như để yên cho họ cai trị một vùng nào đó; sau đó là những cuộc hành quân thường ngày ở các đồn biên giới, chính sách “vết dầu loang” mà quí ông Galliéni và Lyautey sử dụng sau nầy được mọi người biết tới. Hoạt động nầy rất mạnh đến khoảng 1895, nó che đậy dư luận một khía cạnh khác của vấn đề là những sinh hoạt do những người ái quốc Việt Nam đã khởi động tại Trung và Bắc Kỳ như phong trào Cần Vương, các phong trào yêu nước tiếp tục chống lại sự bảo hộ của Pháp. Ðây là một cuộc tranh đấu bền bỉ ngược dòng lịch sử và nó bị che dấu lâu dài, kể cả dưới mắt chính quyền, sự hiện hữu thường trực của một luồng hoạt động ái quốc của người Việt.
Sự lo ngại khác của những viên chức có trách nhiệm việc phân giới là thái độ của chính quyền Trung Hoa. Những lời phản đối thường xuyên của Ðặc Sứ Pháp tại Bắc Kinh dường như cũng đạt được kết quả ở năm 1889, lúc mà Trương Chi Ðộng, một đối thủ lợi hại đã bị đổi từ Lưỡng Quảng để đi Hồ Nam và Hồ Bắc. Ông nầy được em của Lý Hồng Chương thay thế và công việc tưởng sẽ được dễ dàng. Nhưng ở tại Lưỡng Quảng vẫn còn những lực lượng mạnh không chấp nhận việc Pháp đặt chân ở Việt Nam . Chúng có khả năng áp đặt một đường lối chính trị hoàn toàn trái ngược với chính quyền Trung Ương là Tổng Lý Nha Môn hay với Tổng Ðốc Lưỡng Quảng. Hai đường hướng chính trị đối chọi nầy kéo dài làm cản trở những quyết định ở Bắc Kinh và tình hình thực tế của các vùng. Tám trại quân dọc trên biên giới Lưỡng Quảng thì do tướng Phùng Chí Tài chỉ huy. Ðây là một võ quan thuộc hàng cao cấp nhất trong quân đội Trung Hoa, trên áo có những hột nút làm bằng đá quí, mang tước “Thái Tử Thiếu Bảo” (Ministre gardien du Prince héritier). Ông nầy được xếp vào hạng anh hùng quốc gia vì đã thắng Pháp trong trận Lạng Sơn. Ðược các con giúp đỡ, ông nầy thực tế trở thành một thế lực lớn và “với thế lực nầy cũng như tiếng tăm của ông ta, Phùng Chí Tài mới là thực sự là Tổng Ðốc Quảng Ðông”, là lời kết luận của ông chủ tịch Ủy Ban Phân Giới Chiniac de La Bastide. Nếu ta thêm vào đây, lời ghi lại của Chiniac De La Bastide, quan Toàn Quyền phê bình ông “không hoàn toàn lột hết khả năng Tham Mưu Phó của quân đội viễn chinh tại Ðông Dương mà địch thủ là người Trung Hoa... và như thế chỉ có một ý tưởng duy nhất luôn luôn nổi bật trong những bản tường trình: chứng tỏ sự trội hơn về thông minh và đạo đức của ủy ban Pháp đối với ủy ban Trung Hoa”. Chúng ta hiểu vì thế, công việc phân giới bắt đầu rất chậm chạp và khó khăn.
Mặc khác, phía bên Pháp vào việc khá trễ. Vì biết được ít nhiều những khó khăn to tát đang chờ đợi, những vị quan toàn quyền (Constans, sau đó là Richaud) và những viên sĩ quan chỉ huy cố ý trì trệ việc thi hành những lệnh đến từ Paris , bắt đầu từ tháng 12 năm 1887. Phía người Hoa thì họ tuyên bố rằng đã sẵn sàng để bắt đầu công việc. Cho đến tháng 5 năm 1889 ông Toàn Quyền Piquet mới thành lập một ủy ban “để bắt đầu cho công việc phân giới toàn vùng biên giới Việt Hoa”. Từ năm 1889 đến năm 1891 đã có như vậy một ủy ban đặc biệt phụ trách phân giới toàn vùng biên giới, trước hết do một viên sĩ quan, đó là ông Chiniac de La Bastide, sau đó là một nhà ngoại giao chuyên môn về Viễn Ðông là ông Flandin. Kết quả của công việc không là bao trong lúc chi phí lại quá tốn kém cho vị chủ tịch cũng như những nhân viên của ủy ban. Năm 1891, với việc tổ chức những Vùng Quân Sự, ông Toàn Quyền mới là ông Lanessan giao công việc phân giới ở những Vùng Quân Sự nầy cho các vị chỉ huy trưởng ở vùng đó. Vấn đề phân giới vì thế được trở thành nhiệm vụ của quân đội phụ trách kiểm soát vùng biên giới. Nhờ vậy mà việc phân giới được dễ dàng và ít tốn kém trong khi hiệu suất làm việc cao hơn. Mặc khác, việc phân giới đã được giao cho những nhân vật tài giỏi, Ðại Tá Servière, sau đó Ðại Tá Galliéni.
Về phía Trung Hoa, ở Quảng Tây, tướng Sou (Sử Kinh Báo) cũng theo khuynh hướng hợp tác và giao hảo. Ðại Tá Galliéni kể lại trong một câu chuyện khôi hài về những buổi đại yến mà tướng Sou đãi ông nầy hay là tình bạn thật sự đã nẩy nở giữa hai người. Ở Quảng Ðông và Vân Nam sự việc cũng tương tự như thế. Hai bên Pháp và Trung Hoa làm như không còn nhớ đến trận Lạng Sơn, không còn vấn đề phục thù cho những trận chiến vào các năm 1884-1885. Hai bên chấp nhận lần hồi những gì đã xãy ra và chuẩn bị cho tương lai, vì quyền lợi hỗ tương giữa Pháp và Trung Hoa.
Và vì không còn những mâu thuẫn chính trị cơ bản, việc  phân giới trở thành không quan trọng và không được sự chú ý của chính quyền trung ương nữa.
Tuy nhiên, những khó khăn trên thực địa không phải là không có. Sự diễn dịch đồ tuyến trên thực địa cần phải có một vài thay đổi để phù hợp với thực tế. Bởi vì các bản đồ và các biên bản phân định năm 1887 thường thì không chính xác. Vì thế trước khi cắm mốc người ta phải lấy địa hình để vẽ lại bản đồ và việc nầy dễ dàng đặt lại vấn đề công ước 1887. Vài viên sĩ quan Pháp có chủ trương thay đổi sâu xa. Ý kiến được chấp nhận là trao đổi và đền bù đất đai, tùy theo yếu tố chiến lược đòi hỏi. Vì vậy mà mặt lịch sử của đường biên giới bị xem nhẹ. Công việc đã gặp nhiều trở ngại, mất thì giờ ở tại một số vùng có tranh chấp. Hai vùng quan trọng đó là Ðèo Lương trên biên giới Quảng Tây và Tụ Long trên biên giới Vân Nam . Vùng Tụ Long đã được giải quyết phần lớn vào năm 1894, nhưng những điểm tranh chấp chính yếu chỉ được giải quyết ở cấp cao hơn, tại Bắc Kinh, giữa ông Gérard và Tổng Lý Nha Môn, qua công ước 1895.
Tại Ðèo Lương thì Ðại Tá Galliéni nhượng bộ và bỏ một phần đất (diện tích giới hạn) của tổng nầy vì ông cho rằng, điều quan trọng cho quân đội Pháp là không phải tranh chấp từng tấc đất, mà “đạt được những đền bồi xứng đáng để có được một đường biên giới thiên nhiên thuận lợi nhằm ngăn cản dễ dàng những đảng cướp xâm phạm vào lãnh thổ”. Vấn đề chủ yếu không còn là lãnh thổ mà là chiến lược. Vì thế vấn đề biên giới mỗi lúc được lẫn vào trong những vấn đề khác về bình định và cảnh sát biên phòng, chống lại những đảng cướp Tàu còn ở trên đất Việt, và chống lại sự xâm nhập của các băng đảng khác đến từ Tàu, hai phương diện nầy thực ra liên hệ với nhau.
Cũng như thế mà Ðại Tá Pennequin, từ tháng 8 năm 1893, đuổi được những đảng cướp Tàu đóng trên thượng lưu sông Hồng, bằng cách cam kết sẽ rút khỏi vùng Tụ Long mà người Tàu muốn lấy vùng nầy. Nhưng những đảng cướp nầy lại đụng độ với quân triều đình; quân triều đình bị thua nặng. Ðể có được sự bình yên, viên quan Tàu trấn thủ vùng nầy là ông Tao tại Mường Tè phải kết hợp với chúng và hứa là không đánh đuổi cũng như cung cấp cho chúng tiền bạc và đạn dược, sau đó viên quan nầy nhượng vùng đất có tranh chấp nầy lại cho Pháp. Pháp đồng ý tiếp nhận và vào tháng 2 năm 1894, gởi một đạo quân gồm 500 người do ông Prétet chỉ huy. Những đảng cướp tại đây vì thế phải bỏ nơi nầy, một số trở lại phía thượng lưu sông Ðà; là nơi mà Ðại Tá Pennequin đã đuổi chúng đi năm trước.
Cũng vậy ở khắp nơi trên đường biên giới, những băng đảng cướp từ bên Tàu sang lãnh thổ Việt Nam để cướp bóc.
“Tất cả những quan lại Trung Hoa ở vùng biên giới biết rằng họ có thể cướp bóc và giết người vô tội vạ như ý muốn ở Bắc Kỳ, sau đó chuyên chở phẩm vật cướp về lại bên Tàu mà không có một trở ngại. Những viên quan trong vùng biên giới Quảng Tây nầy dung dưỡng cho bọn cướp vì họ sống nhờ vào đó. Ở mỗi trạm gác họ lấy một phần những gì mà bọn cướp đã cướp được, quân lính của họ là những nhân viên đắc lực phụ trách công việc nầy” (theo Galliéni au Tonkin ). Bọn cướp ăn cướp không từ món gì, từ trâu bò cho đến đàn bà, con nít.
Những hoạt động tàn ác của bọn cướp Tàu – trên biển cũng như trên đất liền – là bắt cóc trẻ em và phụ nữ, sau đó bán sang Tàu để làm nô lệ, thứ thiếp hay làm điếm; sự phân biệt ba tình trạng nầy thì thông thường rất khó. Galliéni viết (Galliéni au Tonkin ): “Ở Quảng Tây thì phụ nữ rất hiếm hoi... Riêng ở Long Châu thì tỉ lệ chỉ có một phụ nữ cho 5 hay 6 đàn ông; hơn nữa phụ nữ Việt thì được ưa chuộng vì giỏi giang trong mọi lãnh vực, làm việc nhà, tiết kiệm và biết thương lượng buôn bán. Vì thế những thương buôn Tàu rất muốn có những người phụ nữ nầy để giúp họ trong việc buôn bán... Một số lớn, theo lời ông Lãnh Sự Long Châu, thì được đối xử tốt, họ theo các thói quen của Tàu để phù hợp với nếp sống mới và không tìm cách trở về quê quán. Nhưng một số khác thì nhớ quê nhà và có khi tìm đến lãnh sự Pháp để xin được hồi hương”.
Việc phân giới thực sự đã làm giảm lần hồi số lượng đảng cướp Tàu vùng biên giới, việc nầy còn có hiệu quả hơn khi các đồn bót được dựng lên. Việc xây dựng nầy nhằm vào một mục tiêu chiến lược, nhưng thực tế, nó được dùng vào, hay thử dùng vào, việc kiểm soát (police) để ngăn chận sự hỗn loạn và nghèo đói từ các vùng Hoa Nam đã bị tàn phá tràn sang và việc buôn lậu vũ khí hay thuốc phiện. Chất ma túy nầy thực tế mới đóng  vai trò tiền tệ thực sự ở các vùng biên giới.
Trong năm 1894, trên các vùng biên giới thuộc tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây và Vân Nam việc phân giới và cắm mốc đã kết thúc, ngoại trừ một vài địa phương còn tranh chấp thuộc tổng Tụ Long và vùng hữu ngạn sông Hồng. (Ông Charles Fourniau viết sai ở nơi đây: toàn vùng biên giới Vân Nam, khu vực tả ngạn sông Hồng chỉ được phân giới và cắm mốc ... do Ðại Tá Pennequin phụ trách. Xem bản tường trình của Pennequin và các biên bản phân giới vùng Vân Nam ).
Sự phân giới vùng hữu ngạn sông Hồng.
Ở vùng thượng du Tây Bắc Việt Nam, phía Tây Lào Cai, giữa sông Hồng và thượng lưu Sông Ðà thì không được phân giới và vùng nầy cũng không được phân định (vì quên?) trong công ước 1887.
Về đoạn thứ 5 của vùng biên giới Vân Nam, Ủy Ban Phân Ðịnh đã ký một biên bản vô lực (procès verbal de carence) vào ngày 19 tháng 10 năm 1886 : không thể có được sự thỏa thuận “vì những trở ngại hiện hữu trên đoạn biên giới nầy, Ủy Ban quyết định rằng, trong lúc nầy không thể đi ra thực địa. Vì thế, ..., các Ủy Viên hai bên sẽ đệ trình việc nầy lên chính phủ của họ, hai bên sẽ thỏa thuận về thời điểm và phương thức cho việc phân định lại vùng biên giơi nầy”.
Nhưng để có thể ký kết các hiệp ước bổ túc một cách nhanh chóng, toàn thể chiều dài của vùng biên giới được vẽ trên bản đồ. Ông Constans ở Bắc Kinh thỏa thuận với nhà Thanh để vẽ đồ tuyến nầy trên bản đồ của Trung Hoa, thiếu mọi  công việc đo đạc trên thực địa. Phía Trung Hoa đòi hỏi toàn vùng nầy, được biết dưới tên là Phong Thổ. Những người thương lượng phía bên Pháp gộp vấn đề nầy với những tranh chấp ở tổng Tụ Long, đạt được là đường biên giới chia vùng Phong Thổ ra làm hai, Việt Nam được một nửa. (Đỗ Mười cái thằng Pháp này, nó tắc trách nó làm mất đất của dân Việt)
Công Ươc được ký kết như thế nhưng trên thực tế thì đường phân chia nầy chỉ là một đường vạch trên bản đồ mà bản đồ nầy hoàn toàn sai, nó không hề phù hợp với một thực tế lịch sử, thực tế chính trị hiện thời cũng như thực tế từ sự đo đạc trắc địa.
Nhưng làm sao mà phía Pháp biết được vì chưa hề có một người Pháp nào đi vào vùng nầy, một vùng hoàn toàn thoát khỏi sự kiểm soát của chính quyền Việt Nam cũng như Trung Hoa. Vùng nầy được điều khiển do những đầu lĩnh phong kiến địa phương hay những đảng cướp, mặt khác, vùng nầy bị tàn phá dữ dội.
Lý do, một mặt do hậu quả của việc lập sào huyệt của các đảng cướp Tàu, vùng nầy bị tàn phá ghê gớm vào năm 1887 bởi đường lối chính trị “tiêu thổ” của Tôn Thất Thuyết. Ông nầy sau khi rời vua Hàm Nghi trong vùng núi non Quảng Bình thì sang Tàu. Trước khi vào đất nầy ông dừng ở Lai Châu, tại đây ông được Ðèo Văn Trì, một đầu lĩnh quan trọng cai trị vùng nầy, tiếp đón. Ðể ngăn chận một sự theo đuổi có thể của quân Pháp   mà trên thực tế thì quân nầy không thể tiến vào những vùng rừng núi, ông Tôn Thất Thuyết thuyết phục Ðèo Văn Trì áp dụng việc “tiêu thổ” vùng đất của mình rồi theo ông sang Tàu. Ðèo Văn Trì đã nghe theo. Ông Pavie (Auguste) đi ngang vùng nầy năm sau diễn tả cho chúng ta những thung lũng bỏ hoang, làng mạc nhà cửa phá bỏ do những người dân ở đây mà một số theo thủ lĩnh của họ sang Tàu.
Quyết định tại Bắc Kinh cắt làm hai vùng Phong Thổ trên bản đồ, hay là lời tuyên bố của tổng đốc Vân Nam chính thức sát nhập vùng nầy vào lãnh thổ của mình thì rất thiếu thực tế đối với với tình trạng cụ thể của vùng đất hẻo lánh nầy, nó hoàn toàn tự trị dưới một chế độ phong kiến, và phần lớn rất nghèo khổ. Nhưng bắt đầu từ năm 1888 tình trạng nầy thay đổi tận gốc rễ.
Người Pháp bắt đầu đi vào vùng thượng lưu sông Ðà vào năm 1888 qua hai hình thức. Một bằng quân sự (đoàn quân Pernot) và hai là việc thám hiểm. Công trình thám hiểm của ông Pavie được thực hiện hai lần, lần đầu từ Thái Lan đi lên Hà Nội và lần thứ hai từ Hà Nội đi ngược trở lại để đến Bangkok . Cuộc hành quân Pernot thì để lại Lai Châu một đồn binh; ông Pavie lúc trở về thì đi với ông Pennequin và không hề nổ súng, những người nầy đã thành công trong việc thâu phục được một số băng đảng ở vùng nầy.
Hoạt động nầy của người Pháp ở đây thực sự không nhắm vào Trung Hoa hay những vấn đề liên quan đến biên giới với họ, mà là do việc Thái Lan đã có những hoạt động trên toàn vùng đất Lào và có khuynh hướng bành trướng về những địa phương nguyên thủy thuộc ảnh hưởng An Nam, từ đèo Ai Lao (thuộc vùng Bình Ðịnh) cho đến vùng thượng lưu sông Ðà. Năm 1888, một đạo quân nhỏ của Thái Lan đã chiếm vùng nầy và bắt đi nhiều cháu, con thuộc dòng họ Ðèo Văn Trì (Việc này sử mình ko hề nói đến!). Sau đó những tù nhân nầy được thả nhờ  trung gian của ông Pavie. Nhờ vậy mà tình hình xã hội ở đây thay đổi. Cho đến lúc nầy thì Ðèo Văn Trị vẫn còn ở Trung Hoa với Tôn Thất Thuyết, dòng họ ông cai trị vùng nầy thù nghịch với Pháp trong lúc người Pháp thì dựa lên kẻ thù không đội trời chung của Ðèo Văn Trị là viên Quan Châu ở “Chien Tao”, một người không có nhiều thế lực. Năm 1888, gia đình Ðèo Văn Trì (ông nầy đang ở bên Tàu, quyền hành trong tay người em là Kam Heun), để có thể bảo vệ chống lại uy quyền của Thái, họ phải nghiêng về phía Pháp. Người Pháp vì vậy mới bỏ viên Quan Châu ở Chiên Tao để lập quan hệ với dòng họ thống trị vùng nầy. Ðèo Văn Trì từ Tàu trở về và ở lại đây, trở thành người cộng tác mật thiết dưới quyền bảo hộ của Pháp cho đến khi ông này chết. Nhờ vào việc nầy mà toàn vùng Phong Thổ mới chịu sự lãnh đạo của Pháp, dòng họ Ðèo Văn Trì lãnh đạo vùng nầy không hề công nhận công ước 1887.
Nhưng vào cuối năm 1891, để chấm dứt việc phân giới vùng biên giới Vân Nam, ủy ban do ông Servière làm chủ tịch đến Phong Thổ để làm công việc trắc địa lấy đồ hinh vùng nầy chiếu theo đồ tuyến 1887. Những sĩ quan phụ trách vùng biên giới nầy phản đối kịch liệt.
Nhất là viên chỉ huy trưởng đạo (cercle) Van Bu (phía hữu ngạn sông Ðà, và vùng thượng lưu sông Mã), là vùng trực tiếp liên hệ, phản đối việc trắc địa tại đây và giải thích như sau:
“Công Ước Constans đã nhượng cho Trung Hoa toàn vùng hữu ngạn sông Mã và trọn vùng tả ngạn sông Ðà, phía trên Lai Châu mà đây là cái nôi của dòng họ Ðèo Văn Trì và dường như họ không biết đến nội dung công ước nầy. Nhưng trên thực tế, bỏ qua nội dung công ước, thì chúng ta kiểm soát vùng nầy và thái độ của chính quyền Trung Hoa  không hề phản đối. Nhưng nếu chúng ta phân định thì chúng ta phải áp dụng công ước vì vậy phải cắt vùng nầy ra làm hai. Nếu chúng ta nhượng vùng nầy thì chúng ta không những xúc phạm Ðèo Văn Trì về quyền lợi mà còn đến danh dự của ông ta. Chúng ta làm việc với ông nầy từ một năm nay và xem ông như là người bảo vệ biên giới; khi phong ông ta làm Quan Ðạo vùng nầy, chúng ta đã có quan hệ vĩnh viễn với ông. Nếu chúng ta cắt vùng nầy ra làm hai, chúng ta tự xóa bỏ uy danh của mình mà ở xứ rộng lớn và khó khăn nầy, chúng ta chỉ giữ được là nhờ ở cái uy danh nầy và sự gan dạ của mình.” (CAOM, tiểu đoàn trưởng Thirion gởi chỉ huy trưởng vùng 4 quân sự).
Bị thuyết phục bởi những lý lẻ nầy, vị chỉ huy trưởng vùng 4, lúc đó còn là Trung tá, ông Pennequin, sau đó là tướng Duchemin là chỉ huy trưởng quân đội, cùng đòi hỏi đình chỉ việc phân giới. Tháng 3 năm 1894, ông Toàn Quyền Lanessan ra lệnh cho Servière ngưng mọi công việc trong đoạn biên giới giữa sông Hồng và sông Ðà.
Hơn nữa, bắt đầu từ năm 1893, vấn đề không còn tương tự như năm 1887 vì hai lý do: Pháp chiếm được Lào và sự yếu kém của Tàu.
Từ năm 1893, Pháp đặt được quyền bảo hộ tại Lào; lực lượng của Thái Lan bị đuổi về phía bên kia sông Cửu Long, không còn là một nguy hiểm nữa. Tự nhiên, xứ bảo hộ thuộc Pháp kéo dài thêm nhiều trăm cây số đường biên giới với Tàu về phía Tây. Sự phân định biên giới phía Bắc Lào gây thêm nhiều việc phiền phức trong một vùng núi cao khó khăn cho việc đi lại, tại đây là vùng tam biên Miến Ðiện (thuộc Anh) Lào (thuộc Pháp) và Trung Hoa. Những sự nhượng bộ trong lúc phân giới giữa Pháp với Trung Hoa tại Bắc Kỳ có thể sẽ có ảnh hưởng rất lớn trên vùng biên giới có tranh chấp ở Lào. Quan trọng là đối tượng không còn là Trung Hoa mà là nước Anh.
Trung Hoa bắt đầu từ những năm 1893-1894 cho thấy những dấu hiệu sút kém, mở ra cho Pháp những đường hướng chính trị mới.
Từ 31 tháng 7 năm 1894, Trung Hoa khai chiến với Nhật, nhưng bị thua liên tục một cách nhục nhã và ngày 17 tháng 4 năm 1895 phải ký hiệp ước Simonoseki, đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử kháng chiến của Trung Hoa chống lại áp lực của các đế quốc. Kể từ lúc nầy “Trung Hoa mất đi nhanh chóng sự tự chủ về kinh tế, độc lập về lãnh thổ, chính trị cũng như về quân sự. Trung Hoa đi vào một giai đoạn đau thương nhất trong lịch sử của họ, trong lúc mà những nước giàu đang tiến bước mạnh trong lãnh vực kỷ nghệ”.
Giai đoạn lịch sử bắt đầu với những năm dài trong vấn đề phân định đường biên giới Việt Trung, chấm dứt trong một hoàn cảnh khác hẵn với lúc ban đầu.
Trong khoảng thời gian 20 năm, sau khi chế ngự được các cuộc nổi dậy to lớn trong những thập niên 50 và 60, đã có một sự thay đổi chính trị dưới ảnh hưởng của Lý Hồng Chương, Trương Chi Ðộng v.v... việc nầy cho phép Trung Hoa, mặc dầu có những nhượng bộ ở những xứ mà họ cho là của mình, nhưng Trung Hoa vẫn đương đầu được với những gây hấn của các cường quốc để thương lượng với họ và đôi khi dành được một vài ưu điểm.
Nhưng từ 1894-1895 thì mọi việc đều thay đổi. Trung Hoa không thể đối đầu ở mọi mặt trận, trong lúc mà sự bành trướng của các đế quốc, đặc biệt là nước Pháp, có được kinh nghiệm đụng độ với Tàu ở các năm 1883-1885 cũng như việc chống cự của các lực lượng ái quốc Việt Nam; nước Pháp đã có một tư thế khác: chiếm giữ được Lào và chuẫn bị những dự án ở Vân Nam.
Vì thế những vấn đề liên quan đến biên giới còn tồn đọng chưa giải quyết được đặt ra trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác: Trong vùng thượng du Tây Bắc, thẩm quyền của triều đình An Nam thì chưa bao giờ được xác định thực sự, đường biên giới lịch sử không rõ ràng, những vùng đất tại đây thực tế thuộc thẩm quyền của các dòng họ phong kiến thuộc các dân tộc thiểu số hơn là những vùng đất thuộc quốc gia cần được phân định. Vì thế những vùng đất nầy đường biên giới không được xác định bằng thực tế lịch sử mà do tương quan lực lượng trong mỗi lúc. Do đó mà quan niệm của Lyautey, phù hợp với quan niệm của nhiều viên sĩ quan thời đó, nhất là ông Pennequin. Lyautey giải thích rằng sẽ có lợi nếu để nguyên tình trạng (statu quo) vùng biên giới chưa được phân định. “Sẽ rất có thể một ngày nào đó chúng ta sẽ mở lớn ra ở vùng Vân Nam ... Vì thế sẽ có lợi nếu để vấn đề nguyên trạng... Việc phân giới, luật lệ về cảnh sát biên phòng... thì trấn an được những nhà ngoại giao, nhưng nó đi ngược lại đường hướng chính trị của chủ nghĩa thuộc địa, chủ nghĩa nầy thì làm mọi việc để chiếm đất và tương lai sẽ quyết định sau... Những người theo chủ nghĩa thuộc địa thì không bao giời phân định biên giới” (theo P. Lyautey, Lettres de Tonkin et de Madagascar).(Nếu Pháp còn là cường quốc và Cộng đảng ko chiếm được TQ thì có thể, và dân Việt được lợi)
Nhưng dầu vậy cũng phải thiết lập một đường biên giới, bởi vì từ nay hầu như toàn vùng đã ở dưới sự kiểm soát của Pháp. Nhưng không thể là đường biên giới do công ước 1887 chỉ định. Vì thế Pháp đã ép Trung Hoa một đồ tuyến khác.
Vào đầu năm 1894, ông Pavie gặp Toàn Quyền De Lanessan và ông Gérard đang chuẩn bị đi Bắc Kinh để lãnh nhiệm vụ Ðặc Sứ Pháp (Ministre de France). Những người nầy sắp đặt một đồ tuyến mới để yêu cầu triều đình Trung Hoa chấp thuận, trong đó liên quan đến biên giới Việt Trung (vùng Phong Thổ) và biên giới Lào Trung (vùng Phong Saly, Mường Hou và Mường Sing). Ðồ tuyến mới này đem lại cho Việt Nam – là vùng duy nhất mà chúng tôi nhận thấy – toàn bộ lãnh thổ của Ðèo Văn Trì, giao lại cho Việt Nam  vùng phía Bắc đã bị đồ tuyến của công ước 1887 chia hai.
Toàn bộ vấn đề biên giới (Việt và Lào), từ sông Hồng đến sông Cửu Long, đã được thương lượng tại Bắc Kinh vào năm 1894 do ông Gérard, trong một khung cảnh tai biến của cuộc chiến Trung-Nhật.
Về vấn đề biên giới Việt Nam , có hai điểm không tương xứng được giải quyết: vùng đất nhỏ ở Muong Thong và Man Mei để hoàn tất vĩnh viễn biên giới vùng Tụ Long và sự phân định vùng Phong Thổ.
Ngày 10 tháng 10 năm 1894, ông Gérard điện tín cho hay rằng Tổng Lý Nha Môn đã chấp nhận đồ tuyến đề nghị. Vì thế công việc trên thực địa có thể được tiếp tục. Ông Pavie được chỉ định làm chủ tịch ủy ban. Ông nầy chia vùng biên giới làm hai phần, ranh giới là sông Ðà, dành cho vùng thuộc Lào từ sông Ðà đến sông Cữu Long, giao công việc phân định từ sông Ðà đến sông Hồng cho Commandant Tournier, các vị phụ tá là Lugan, Sandré và Sainson. Ngày 26 tháng 11 năm 1894 Đại tá Tournier lên lãnh nhiệm sở. Hai ủy ban Pháp-Trung họp tại Long Pô ngày 3 tháng 1 năm 1895. Ngày 29 tháng 3 việc trắc địa theo đồ tuyến xác định ở Bắc Kinh hoàn tất. Công việc được thực hiện cùng lúc với phần biên giới kia, việc thương thuyết bắt đầu lại tại Bắc Kinh đưa đến kết quả ngày 20 tháng 6 năm 1895 ký công ước giữa ông Gérard và hoàng thân King, chủ tịch Tổng Lý Nha Môn, xác định biên giới giữa sông Hồng và sông Cửu Long. Cùng lúc trong khoản cuối cùng, công ước nầy giải quyết dứt khoát luôn những tranh chấp ở Tụ Long (Muong Thong và Man Mei).
Công Ước Gérard vì vậy là văn bản duy nhất bổ túc thêm cho công ước 1887. Văn bản nầy sửa chữa đoạn thứ năm của vùng biên giới Vân Nam , có nghĩa là vùng phía bên kia của sông Hồng. Những sửa đổi chi tiết khác cũng được chấp nhận trong những lúc cắm mốc.
Công ước Gérard vì thế mở qua giai đoạn cuối của việc phân giới giữa Trung Hoa và những vùng đất dưới sự kiểm soát của Pháp. Việc cắm mốc còn trễ nải ở vùng phía bên kia sông Ðà. Ngược lại, nó được giải quyết nhanh chóng từ sông Ðà đến sông Hồng. Ðoạn biên giới nầy được chia làm hai tiểu đoạn: sông Hồng tới sông Nậm Nam , tức vùng Phong Thổ; và từ sông Nậm Na đến sông Ðà, tức vùng Lai Châu.
Ngày 1 tháng 4 năm 1896 trung tá Vimard, chỉ huy trưởng vùng 4 quân sự điện tín cho tổng tư lệnh; “việc phân giới giữa hai nước Việt Trung hoàn toàn kết thúc”.
Còn nữa...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét