Trong nhà ai đẹp bằng em
Mắt xanh, môi tím lại chen răng vàng
Răng vàng, môi tím, mắt xanh
Gần chồng mà chẳng hôi tanh mùi chồng
(Ca dao mới)
Tôi thích thơ, thơ hay, thơ nổi tiếng càng thích. Nhưng còn thích hơn là những bài thơ nhại, thơ ăn theo những bài thơ nổi tiếng ấy.
Tôi đọc thơ Đường, Tống nói chung có thích, thuộc vài ba chục bài, nhưng nếu phải nói lý do thích thì chịu. Có lẽ bởi vì cái sự Cảm, Nghĩ của tôi khác xa với thời xuất hiện những bài thơ ấy. Thế nhưng những bài thơ Đường nào đã được các “Tếu sỹ” dịch thì để lại cho tôi ấn tượng không phai. Bài thơ của Giả Đảo:“Nhị cú tam niên đắc
Ngâm thành song lệ lưu
Tri âm như bất thưởng
Quy ngọa cố sơn thu”.
Đọc bài thơ, tôi chỉ lăn tăn: “quái, gì mà nhiêu khê thế, ba năm làm được có hai câu thơ mà cũng đem ra khoe. Mấy ông tổ hưu phường mình, một buổi chiều các bố ấy đẻ hàng chục bài ấy chứ”. Thế nhưng khi đọc bản dịch của một “dịch giả” vô danh:
“Ba năm làm được hai câu
Ngâm lên chỉ thấy con trâu gật gù...” thì bài thơ trở thành tuyệt vời !
Hay bài thơ “Lương châu từ” của Vương Hàn:
“Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?”
Bài này thì đã quá nổi tiếng, một viên ngọc trong dòng thơ biên tái thời Đường. Bản dịch của nó chắc nhiều người thuộc:
“Bồ đào, rượu rót chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà giục ngựa đi
Bãi cát say nằm, chê cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về”.
Nhưng với tôi, bản dịch này mới là tuyệt tác:
“Rượu Bồ Đào, chén Dạ Quang
Cứ say sưa mãi, lên đường làm sao?
Rượu vào ai cũng tào lao
Ngựa đi chiến địa, còn tao trở về”.
Đến “Kiều” của cụ Nguyễn Du cũng không thoát. Đây là đoạn: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân...”:
“Trước hàng ốc luộc khá đông
Thập cẩm xa, bánh trôi gần ở chung
Bốn bề đông đúc xa trông
Áo vàng nơi nọ quần hồng chỗ kia
Sẽ sàng từ sớm tới khuya
Mượn hàng quà vặt để chia tấm lòng
Tưởng người ở chốn “khuê phòng”
Mất công ai đến rày trông mai chờ
Cuối đường góc chợ… nên thơ
“Nỗi niềm tâm sự” bao giờ nguôi ngoai ?
Xót người xơi vặt hôm mai
Hàng chè ngày lạnh những ai đó giờ
Bánh trôi cách mấy tuần mưa
Có khi me sấu cũng vừa người “ôm”
Buồn trông hàng quán chiều hôm
Hình như thấp thoáng bóng nàng xa xa
Buồn trông hàng cháo mới ra
Các nàng ngồi đó, “tà tà” bao lâu
Buồn trông góc chợ mà rầu
Áo dài áo ngắn cũng “ngầu” cho nhanh
Buồn trông gánh ốc mới lên
Ầm ầm nhi nữ lấn chen chỗ ngồi…
Hoặc
“Suốt đời chọc khuấy mặc dầu
Dọc ngang bởi có cái đầu bọc ô
Mai sau dù có bao giờ
Suối vàng đường cũ ngựa xưa tung hoành
Lơ thơ tơ mỏng che mành
Cõi âm tầu chậm tầu nhanh sá gì...”
Cái này các bác đừng liên tưởng bậy bạ đến vụ án của ông Vũ nhé.
Còn đây, bài “Tiếng Thu” của Lưu Trọng Lư qua lăng kính học trò.
“Em không nghe giờ thi
Dưới hộc bàn thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ đi thi
Luôn nhìn …thầy giám thị
Em không nghe giờ thi
Tiếng phao kêu sào xạc
Em nai nào ngơ ngác
Đạp lên mấy bài thi”
Nguyễn Bính có bài thơ vào hàng tuyệt bút:
“Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu... cánh buồm nâu... cánh buồm...”
Được chế lại:
“Hôm qua dưới quán xôi vò
Mải ăn nên chẳng tò mò nhìn nhau
Xôi ngon đấy, ăn cho mau
Trống còn lâu... trống còn lâu... trống còn...”
Bài “Lỡ bước sang ngang” của thi sỹ được chế :
“Cậy em em ở lại nhà
Sào ruộng em cuốc, mẹ già em nuôi
Hôm nay là mấy tháng rồi
Thua đề, vỡ hụi, số ruồi nó bâu !
Tháng đầu “bay” mất con trâu
Tháng sau “vô tuyến” với “đầu sô-ny”
Cậy em ở lại anh đi
Rày lần mai nữa có khi thân tàn!
Một người “trúng quả” giầu sang
Trăm người tan giấc mông vàng em ơi !”
Nhà thơ Trần đăng Khoa có bài “Thăm Côn Sơn” có câu thơ để đời:
“Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng...”
Anh đã được cái tếu sỹ vô danh nhại:
“ Anh Khoa ơi hỡi anh Khoa
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa bao giờ
Cua khôn ngoi hết lên bờ
Còn chú cá cờ mãi chẳng chịu khôn
Đội mưa trên đảo Sinh Tồn
Mải mê quên hết tâm hồn trẻ trung”
Bác Hồ Dzếnh cũng không tha
“Trời không nắng cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung
Mỏng manh là khói bún bung
Cay cay quẩy nóng, chua cùng dâu da…
Thẫn thờ cửa lớp nhìn ra
Bâng khuâng gió nhớ về qua dạ dầy
“lệ quyên”, tiền mãi chẳng đầy
Dăm ba đồng lẻ thở dài miên man
Ước người bên ấy ghé sang…
“Tình”xa xa lắm tôi càng muốn ăn...’
Có lẽ bài hai sắc hoa Ty gôn” là có nhiều phiên bản nhất. Tôi đơn cử vài ví dụ:
“Nếu biết rằng em đã lấy chồng
Anh về Tỉnh đội mượn ca nông
Nã về phía ấy ba trăm phát
Em ở quê chồng có khiếp không?”
“Nếu biết rằng em đã lấy chồng
Anh về lấy vợ thế là xong
Vợ anh chẳng đẹp như em được
Mới chỉ tương đương Thẩm Thúy Hằng...”
Nhiều, còn nhiều lắm nhưng vợ tội giục ăn cơm mấy lần rồi. Lần chần thì to chuyện đành tạm dừng ở đây. Để kết, tôi trộm vợ, gõ nốt bài thơ “Vợ”.
“Vợ là thân thiết trên đời
Vợ muôn mầu sắc chẳng rời chẳng xa
Vợ là tình cảm thiết tha
Vợ là gió mát, vợ là bão giông
Vợ là một đóa hoa hồng
Vợ là sư tử Hà Đông hình người
Vợ là êm ái tuyệt vời
Vợ là bão tố rụng rời chân tay
Vợ là một chất men say
Vợ là cái đắng cái cay trong lòng...”
Bài này dài lắm, mà em chỉ thuộc đến đây thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét