Giai cấp mới

Thứ Năm, 2 tháng 12, 2010

Giai cấp mới - Milovan Djilas - P4

Khủng bố về mặt tinh thần
1.
Sau khi giành được chính quyền, những người cộng sản đã thực hiện việc khủng bố về mặt tinh thần với một sự khéo léo đến trơ trẽn. Chủ nghĩa duy vật cộng sản có thể là thế giới quan bất dung nhất từ trước tới nay, chỉ điều này cũng đủ để có thể buộc các tín đồ của nó tiến hành những cuộc khủng bố “những quan điểm không phù hợp”. Nhưng nếu thế giới quan ấy không liên kết với những hình thức quyền lực và sở hữu nhất định thì người ta cũng không thể nào dùng nó để biện hộ cho tính chất quái gở của việc đàn áp và tiêu diệt tư duy của con người như đã từng xảy ra.
Mọi hệ tư tưởng cũng như mọi quan điểm đều cố gắng làm ra vẻ như là quan điểm duy nhất đúng, duy nhất không có tì vết nào. Bản chất tư duy của con người là như thế.
Ý định của Marx và Engels trong việc coi học thuyết của mình là đặc biệt không chỉ được thể hiện trong tư tưởng của họ mà còn thể hiện rõ trong cách mà tư tưởng đó được khẳng định. Chính họ đã phủ nhận mọi đóng góp về mặt khoa học và giá trị “xã hội - tiến bộ” của những người cùng thời với mình. Thay vì thảo luận và phân tích thì họ gán cho ý kiến của những người đó cái nhãn “khoa học tư sản”.
Gót chân Achilles của chủ nghĩa Marx, sự hẹp hòi của Marx và Engels (đây chính là môi trường sinh sống cho thái độ bất dung của chủ nghĩa cộng sản về sau) thể hiện rõ nhất trong việc họ không chịu tách thái độ chính trị của những nhà khoa học, nhà tư tưởng đương thời khỏi giá trị khoa học và đạo đức của những trước tác của họ. Họ đã áp dụng thái độ: “ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng” với các nhà tư tưởng đương thời.
“Bóng ma của chủ nghĩa cộng sản” đã gặp sự phản đối mạnh mẽ ngay từ đầu là vì thế.
Quan điểm bất dung thái quá của các “tổ sư” cộng sản xuất phát từ cội nguồn học thuyết của họ: tin rằng không có ngôi sao nào trên bầu trời triết học nữa, hơn nữa họ còn cho rằng nếu có điều gì đó đáng giá xuất hiện thì nó nhất định phải dựa trên cơ sở học thuyết của họ. Tinh thần thượng tôn khoa học của thời đại cũng như nhu cầu của phong trào xã hội chủ nghĩa lúc đó làm cho Marx và Engels coi mọi hiện tượng "không quan trọng” đối với họ (không thúc đẩy phong trào) đều là thiếu khách quan và ít ý nghĩa.
Quá quan tâm đến việc định rõ danh giới “có tính nguyên tắc” trong đội ngũ của mình, trong thực tế họ đã bỏ quên đóng góp của những nhà tư tưởng lớn đương thời.
Trong các trước tác của mình, họ không hề nhắc đến, thí dụ, nhà triết học lớn như Schopenhuaer, hay nhà mĩ học Tan hoặc các nhà văn và hoạ sĩ lớn cùng thời. Ngay những người say mê tư tưởng và tương lai do họ vẽ ra cũng ít được nói tới. Marx và Engels sử dụng một phương pháp đầy bất dung và tìm cách “thanh toán” những kẻ thù của phong trào xã hội chủ nghĩa, hệt như các nhà cách mạng trước đây đã từng dùng với những kẻ thù của mình. Có thể phản bác đóng góp của Proudhon cho khoa xã hội học, nhưng không ai có thể nghi ngờ giá trị những việc ông đã làm cho sự phát triển của phong trào xã hội chủ nghĩa và cuộc đấu tranh xã hội, nhất là ở Pháp. Ta có thể nói tương tự như vậy về Bakunin. Trong cuốn “Sự khốn cùng của triết học”, Marx không chỉ tranh cãi với Proudhon mà còn coi ông này chẳng có tí giá trị gì. Marx và Engels cũng có hành động tương tự với Lassalle và những người đối lập khác trong phong trào của mình.
Mặt khác họ lại có khả năng đánh giá chính xác các sự kiện lớn của thời đại: thí dụ họ là những người đầu tiên đồng ý với Darwin , họ nắm vững các giá trị vĩnh hằng của quá khứ Cổ đại và Phục hưng vốn là cội nguồn của văn hoá châu Âu. Về mặt xã hội học, họ dựa vào kinh tế chính trị học (Smith, Ricardo), về triết học họ dựa vào triết học cổ điển Đức (Kant, Hegel), về lí thuyết phát triển xã hội họ dựa vào chủ nghĩa xã hội Pháp, đúng hơn là các xu hướng diễn ra sau cách mạng Pháp. Đấy đều là những đỉnh cao của tư tưởng khoa học, xã hội học của châu Âu dân chủ và tiến bộ và của cả loài người nói chung.
Nếu so sánh với Lenin thì ta thấy Marx là một nhà khoa học lớn, có thái độ khách quan hơn. Lenin trước hết là một nhà cách mạng vĩ đại, được tôi luyện trong chế độ chuyên chế, tư bản nửa thuộc địa của nước Nga và cuộc đấu tranh giành thị trường của các tập đoàn độc quyền thế giới.
Dựa vào tư tưởng của Marx, Lenin đã đi đến kết luận rằng chủ nghĩa duy vật, nếu nhìn qua lăng kính lịch sử thế giới, là tiến bộ, còn chủ nghĩa duy tâm là phản động. Phải nói rằng kết luận này không những là phiến diện, nghĩa là thiếu chính xác, mà còn làm cho lí thuyết của Marx vốn đã độc tôn còn độc tôn hơn. Cũng cần phải nói rằng nguyên nhân đầu tiên chính là sự thiếu hiểu biết về lịch sử triết học của chính Lenin. Vào năm 1908, khi viết cuốn “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lenin chưa thật sự hiểu các nhà triết học cổ đại cũng như đương đại. Muốn mau chóng đập tan các kẻ thù tư tưởng, những người cản trở sự phát triển của phong trào, ông đã bỏ qua một bên tất cả những gì không phù hợp với quan điểm cách mạng của Marx. Tất cả những gì trái ngược với chủ nghĩa Marx đều bị ông coi là sai, là vô nghĩa và vô giá trị.
Có thể coi các trước tác của Lenin là khuôn mẫu của giáo điều, rất lôgic và có sức thuyết phục.
Cảm thấy rằng trong lịch sử, chủ nghĩa duy vật luôn luôn là hệ tư tưởng của các phong trào cách mạng, phong trào bạo loạn, Lenin rút ra kết luận phiến diện rằng về nguyên tắc (kể cả áp dụng cho việc nghiên cứu các qui luật phát triển của tư duy) chủ nghĩa duy vật là tiến bộ còn duy tâm là phản động. Đi xa hơn, Lenin đã trộn lẫn hình thức và phương pháp với nội dung và tính khoa học của mọi phát minh khoa học. Đối với Lenin chỉ cần một người có quan điểm duy tâm thì ngay lập tức các đóng góp thực tế cũng như vai trò của người đó trong khoa học đều là “đồ bỏ” hết. Ông đã mở rộng thái độ bất dung về chính trị đối với kẻ thù của mình thành thái độ bất dung đối với toàn bộ lịch sử tư tưởng thế giới.
Triết gia người Anh, ông Bertrand Russell, người có cảm tình với Cách mạng tháng Mười ngay từ năm 1920 đã phát hiện được bản chất của của chủ nghĩa giáo điều của Lenin, cũng có nghĩa là cả chủ nghĩa cộng sản như sau:
“Tôi có những bất đồng về mặt nguyên tắc với một vài khía cạnh của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản, đấy không chỉ là một học thuyết chính trị, nó còn là một tôn giáo với một giáo lí hoàn chỉnh và những cuốn kinh thánh. Định chứng minh một điều gì đó, chỉ cần có cơ hội, là bao giờ Lenin cũng trích dẫn Marx và Engels. Người cộng sản chân chính không chỉ là người thừa nhận quan điểm rằng đất đai và tư bản phải là của chung mà còn phải công nhận rằng tất cả sản phẩm làm ra phải được chia một cách công bằng nhất. Đấy còn là người chấp nhận một số định đề giáo điều có sẵn (thí dụ như chủ nghĩa duy vật), các định đề có thể phù hợp với chân lí nhưng về mặt khoa học thì không thể chứng minh một cách không chối cãi được rằng đấy chính là chân lí... Tôi tin tưởng rằng phương pháp khoa học là đặc biệt quan trọng đối với nhân loại. Nếu một hệ thống kinh tế công bằng hơn nào đó có thể được xây dựng với cái giá phải trả là không được tự do nghiên cứu nữa và trở về với thời kì đen tối Trung cổ thì tôi cho rằng giá đó là quá cao. Nhưng cũng phải công nhận rằng trong một khoảng thời gian ngắn nào đó chủ nghĩa giáo điều có thể có lợi cho cuộc đấu tranh”
Thời Lenin đã là như thế.
Tuy không có kiến thức sâu sắc và chiều sâu tư tưởng như Lenin, Stalin tiếp tục “phát triển” lí luận của ông này.
Ta có thể thấy rằng con người cho đến nay vẫn được Khrushchev coi là “nhà lí luận mac-xit số một” thực ra chưa hề đọc Tư bản, tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx. Một người cực kì thực tế và giáo điều đã tự tạo ra “học thuyết về xây chủ nghĩa xã hội” mà không cần đọc các tác phẩm về kinh tế của Marx ! Ông cũng không nghiên cứu bất kì một nhà triết học nào, Hegel thì bị coi là “con chó già” và là “phản ứng của chủ nghĩa chuyên chế Phổ đối với cách mạng Pháp”.
Đồng thời ông lại hiểu rõ Lenin, thường trích dẫn Lenin hơn cả Lenin trích dẫn Marx. Các tác gia khác cũng được Stalin trích dẫn theo Lenin. Điều duy nhất mà ông nắm vững là lịch sử chính trị, đặc biệt là lịch sử Nga, phải nói thêm rằng ông có một trí nhớ siêu quần.
Để đóng vai của mình, Stalin chỉ cần có thế. Tất cả những gì không phù hợp với ước muốn và sự hiểu biết của ông đều bị ông coi là “thù địch” và cấm tiệt.
Ba người, Marx, Lenin, Stalin không chỉ khác nhau như những cá nhân mà khác nhau cả cách hành văn nữa.
Ở Marx, người ta thấy hình ảnh một nhà cách mạng, một giáo sư với văn phong sống động, tự do và cực kì sắc bén. Lenin là hiện thân của cách mạng, văn phong của ông có lửa, chặt chẽ và sắc sảo. Stalin tự coi mình là hiện thân của những khát vọng của nhân dân, còn tư tưởng của mình là đỉnh cao của trí tuệ loài người. Văn phong của Stalin đơn điệu, thiếu sức sống; nhưng chính nhờ tính chất lôgic và giáo điều mà nó lại có tính thuyết phục đối với nhiều người. Sự đơn giản này rất giống với giọng văn cô đọng của các thày tu, điều đó không chỉ là do thời trai trẻ Stalin đã từng theo học trong trường dòng và mà còn phản ánh chính xác tư duy giáo điều của những người cộng sản.
Không ai trong số những người kế tục Stalin có được sự hài hoà nội tại nghiêm khắc của “lãnh tụ vĩ đại”, niềm tin và sức cuốn hút giáo điều như ông. Là những người tầm thường trong mọi lĩnh vực nhưng họ lại là những người rất thực tế. Không có khả năng tạo dựng những hệ thống mới, không thể đưa ra được những ý tưởng hay ho nhưng họ lại có thể (nhờ khả năng nắm bắt được hiện thực) ngăn chặn được những cái mới hoặc bóp chết mọi sáng kiến từ trong trứng nước.
Chủ nghĩa giáo điều trong tư tưởng cộng sản đã phát triển như thế đấy. “Sự phát triển của chủ nghĩa Marx” cùng với việc củng cố giai cấp cầm quyền mới như vậy là đã dẫn tới không chỉ sự độc quyền của một sơ đồ tư tưởng duy nhất mà còn tạo ra sự bao cấp về tư tưởng của một người hoặc một nhóm người và như vậy kết quả nhất định sẽ là sự trì trệ về tinh thần và sự nghèo nàn của chính hệ tư tưởng kia. Đồng thời thái độ bất dung đối với mọi quan điểm khác, đối với tư duy nói chung lại ngày một tăng thêm. Lực tác động cũng như sức sống của hệ tư tưởng này tỉ lệ nghịch với “sức khoẻ” của những người đại diện cho nó.
Trở thành “một chiều” và bất dung hơn, chủ nghĩa cộng sản hiện đại càng ngày càng sản sinh ra thêm nhiều những “nửa” sự thật hoặc là dùng những nửa sự thật như thế để che đậy hành tung của mình. Mới nhìn thì một vài khía cạnh của nó có vẻ giống y như thật. Nhưng chính nó lại chứa đầy dối trá. Khi toàn bộ đời sống xã hội bị đặt dưới quyền kiểm soát của các lãnh tụ cộng sản thì những nửa sự thật kia, thậm chí cả lí thuyết cộng sản càng ngày càng mất khả năng vận động và chìm dần vào dối trá.

2.
Việc áp dụng luận điểm cho rằng chủ nghĩa Marx là phương pháp toàn năng mà người cộng sản phải luôn luôn sử dụng nhất định sẽ dẫn đến sự khủng bố đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần.
Nhà vật lí sẽ làm thế nào nếu các nguyên tử không chịu tuân theo nguyên lí thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập của Hegel và Marx? Nhà thiên văn học sẽ làm thế nào nếu vũ trụ không tuân theo biện chứng pháp cộng sản? Nhà sinh vật học sẽ phải hành động ra sao nếu cây cối không chịu theo lí luận của Stalin và Lưshenko về sự hợp tác giữa các giai cấp trong “xã hội xã hội chủ nghĩa”? Không thế nói dối “một cách chân thành” các nhà khoa học đành phải trả giá vì “tà thuyết” của mình. Các phát minh của họ chỉ có thể được công nhận nếu chúng “khẳng định” các công thức macxit- lêninit. Các nhà khoa học cứ phải thường xuyên tìm cách lái các kết quả hoặc phát minh của họ sao cho không trái ngược với giáo điều chính thống. Khoa học bị buộc phải trở thành cơ hội và thoả hiệp. Các lĩnh vực lao động trí óc khác cũng có số phận tương tự.
Sự bất dung của phong trào cộng sản hiện đại làm người ta nhớ đến các giáo phái thời Trung cổ.
Trong chủ nghĩa cộng sản hiện đại người ta có thể thấy sự bất dung giáo điều của những người Thanh giáo thời Cromwell và chính sách không khoan nhượng của phái Jacobin. Dù sao vẫn có một khác biệt, nhưng đấy không phải là vì những người Thanh giáo tin tưởng tuyệt đối vào Kinh thánh còn cộng sản thì tin vào khoa học hay quyền lực của cộng sản thì bao trùm hơn Jacobin. Sự khác biệt nằm trong khả năng: không một tôn giáo hay một nền chuyên chế nào từng có một sức mạnh vô giới hạn và toàn diện như các chế độ cộng sản.
Vị trị của họ càng được củng cố thì các lãnh tụ cộng sản càng thêm tin rằng họ đã chọn được con đường duy nhất đúng để đi tới hạnh phúc và xã hội “lí tưởng”. Đã có một câu chuyện tiếu lâm rằng các lãnh tụ cộng sản xây dựng chủ nghĩa cộng sản cho chính mình. Nhưng các lãnh tụ đã không đùa khi đồng nhất mình với xã hội, với khát vọng của mọi người dân. Chế độ chuyên chế cực quyền song hành với niềm tin không lay chuyển vào hạnh phúc tối cao của nhân loại, còn sự vạn năng của phương pháp và bao trùm của thế giới quan thì song hành với sự bao trùm và vạn năng của áp bức.
Chính quá trình phát triển đã biến các ông trùm cộng sản thành các cai ngục của lương tâm con người, sự bao cấp về tư tưởng tăng lên theo đà phát triển của sức mạnh và “sự thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Nam Tư cũng không tránh khỏi qui luật đó. Ở đây các lãnh tụ thường xuyên nhấn mạnh “tính tự giác cao của nhân dân ta” trong thời kì cách mạng, nghĩa là khi nhân dân, đúng hơn là một bộ phận nhân dân đã tích cực ủng hộ họ. Ngày nay, cũng theo lời các lãnh tụ này, ý thức tự giác “của nhân dân” rất thấp cho nên không thể có dân chủ ngay được. Các lãnh tụ cộng sản Nam Tư tuyên bố công khai rằng khi tính tự giác xã hội chủ nghĩa phát triển cao, họ tin rằng ngày đó sẽ tới cùng với việc hoàn thành công nghiệp hoá, thì họ sẽ mở cánh cửa dân chủ. Khi ngày đó chưa tới thì họ lại tin tưởng tuyệt đối rằng họ có quyền, nhân danh tự do và hạnh phúc trong tương lai, dày xéo lên mọi mầm mống của những tư tưởng và quan điểm đối nghịch với họ.
Các lãnh tụ Xô Viết không cần phải dùng thủ đoạn giả dối như thế. Họ tin tưởng và tuyên bố rằng đất nước đã có dân chủ rồi. Nhưng phải nói rằng chính họ cũng thấy con thuyền đang chao đảo. Họ cũng thường xuyên phải “nâng cao” ý thức của nhân dân, nghĩa là bắt dân chúng phải học thuộc lòng các công thức Marx-Lenin và các chỉ thị của lãnh đạo. Tệ hơn nữa, họ còn bắt buộc dân chúng phải thề nguyền trung thành với chủ nghĩa xã hội, trung thành với tổ quốc và tin vào sự lãnh đạo và những lời hứa suông của họ.
Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Giống như thời Trung cổ khi người ta luôn luôn phải chứng tỏ rằng mình là người trung thành với nhà thờ.
Bắt đầu ngay từ nhà trường, với hệ thống giáo dục và sau đó là tất cả mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần cũng như đời sống xã hội đều nhằm mục đích đó. Đảng cầm quyền quan tâm đến tính tự giác, lương tâm và sự “phát triển” của con người từ khi sinh ra cho đến tận lúc chết. Các nhà báo, các nhà tư tưởng, các văn nô, các trường học chuyên biệt, một hệ tư tưởng chủ đạo duy nhất, một khối lượng tài sản khổng lồ được chi ra cho công việc đó. Để cho bức tranh được toàn vẹn phải kể thêm số lượng khổng lồ các loại sách, loại báo, báo in, báo nói, báo hình và các loại tuyên truyền khác.
Mặc dù vậy, thành tích thu được thật là khiêm tốn và không tương xứng với chi phí cũng như biện pháp tiến hành (ngoại trừ đối với chính giai cấp mới, dĩ nhiên là họ luôn luôn tuân thủ đường lối do chính họ lựa chọn).
Nhưng họ chỉ giành được kết quả khi tiến hành đàn áp các sáng kiến không phù hợp với hệ tư tưởng chính thống cũng như cố tình tiêu diệt mọi tư tưởng đối nghịch.
Trong chế độ cộng sản người ta không thể tư duy mà không có hướng dẫn. Hơn nữa người ta lại thường suy nghĩ khác với chỉ đạo. Xuất hiện tư duy nước đôi: cách nghĩ ngầm, cho mình, và có một cách nữa là để trưng ra, theo tiêu chuẩn chung. Đánh giá các sự kiện cũng theo kiểu nước đôi như vậy.
Điều đó phản ánh, một mặt là kinh nghiệm của quần chúng và mặt khác là sức mạnh của những người cộng sản.
Con người dưới chế độ cộng sản không những bị ngu dân vì sự tuyên truyền mà còn đau khổ vì không thể nhận chân được sự thật, không vươn tới được các ý tưởng mới. Trong lĩnh vực này thì sự tha hoá, thối nát nhiều hơn là “thành tích”.
Các lãnh tụ cộng sản, những kẻ bao cấp về tinh thần, luôn luôn tiến hành theo dõi để tư tưởng của dân chúng không “đi lạc vào khu vực chống cộng”, họ chỉ chuyên cung cấp cho dân chúng hàng tiêu dùng loại hai (những tư tưởng cũ rích, đã hoá đá và không có khả năng thay đổi), chính họ đã đầu độc, giết chết đời sống tinh thần của dân tộc mình. Họ đã nghĩ ra một hình thức giết người vô tiền khoáng hậu - giết chết tư tưởng và hành xử với con người cũng như tư duy của con người không khác gì người ta hành xử với búi cỏ trên sa mạc. Khi giết chết tư tưởng của người khác, không cho tư tưởng người khác được tự do bay bổng thì chính họ cũng trở thành một bọn người nhạt nhẽo, trống rỗng, một bọn người không hề biết đến những phút giây hạnh phúc của tư duy trầm mặc thâm sâu. Cả xã hội giống như một nhà hát không khán giả. Họ tư duy theo kiểu nhai lại: khi có nhu cầu là đầu óc bắt đầu xào xáo những ý cũ rích. Công việc của những cố-đạo-cảnh-sát-viên, đồng thời là chủ nhân ông không những của các phương tiện hoạt động trong lĩnh vực tinh thần như nhà in, đài phát thanh,... mà còn là chủ nhân của các phương tiện vật chất liên quan đến đời sống của từng con người như nhà ở và bánh mì, là như thế đấy.
Như vậy thì chủ nghĩa cộng sản hiện đại có khác gì một giáo phái?
--------------
Chú thích
[1]Đây là mức lương trước vụ đổi tiền năm 1961. Sau này tương ứng là 60 và 30 rub.

3.
Tuy vậy tất cả các nước cộng sản đều trải qua những bước nhảy vọt về kĩ thuật, theo kiểu của mình và trong những giai đoạn nhất định, tất nhiên rồi.
Quá trình công nghiệp hoá trong một giai đoạn ngắn như vậy nhất định sẽ tạo ra một tầng lớp cán bộ kĩ thuật đông đảo, tuy trình độ không thật cao, cũng như một số người có tài.
Tốc độ công nghiệp hoá cao trong một số lĩnh vực cũng thúc đẩy công tác nghiên cứu trong các lĩnh vực đó. Cả trong thế chiến thứ II cũng như sau này, Liên Xô đều không thua kém nước nào về kĩ thuật quân sự. Trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân Liên Xô chỉ đứng sau Mĩ.
Các nhà sáng chế vẫn tích cực hoạt động mặc dù bộ máy quan liêu ngăn chặn quá trình áp dụng vào sản xuất, các phát minh sáng kiến nằm chất đống trong tủ của đủ thứ cơ quan. Nhưng tác dụng tiêu cực nhất, có thể nói giết chết mọi phát minh, sáng kiến, chính là sự bàng quan của chính các xí nghiệp.
Là những người rất thực tiễn, các lãnh tụ cộng sản lập tức hợp tác với các chuyên gia, các kĩ sư và các nhà bác học mà không cần để ý tới thế giới quan “tư sản” của họ. Họ biết rõ rằng không có các cán bộ kĩ thuật thì không thể nào tiến hành công nghiệp hoá được, hơn nữa giới này lại không tạo ra cho họ bất kì mối nguy nào. Đối với tầng lớp cán bộ kĩ thuật (đối với mọi thứ đều như vậy) cộng sản đưa ra lí thuyết nửa vời: ai trả tiền thì các chuyên gia phục vụ người ấy. Thế thì tại sao giai cấp vô sản hay nói đúng hơn giai cấp mới lại không thuê chuyên gia? Hệ thống trọng dụng nhân tài xuất phát từ ý tưởng đó.
Nhưng dù có những tiến bộ kĩ thuật như thế, một điều rõ ràng là không có một phát minh khoa học lớn nào được tạo ra dưới chính thể Xô Viết. Về điểm này thì Liên Xô còn kém hơn cả thời Sa Hoàng, khi đó, mặc dù còn bị lạc hậu về kĩ thuật, nước Nga đã có những phát minh mang tính thời đại.
Việc lạc hậu về kĩ thuật tất nhiên sẽ gây ra nhiều cản trở cho phát minh khoa học nhưng nguyên nhân chính vẫn là cấu trúc xã hội.
Giai cấp mới quan tâm tới tiến bộ kĩ thuật nhưng nó còn quan tâm tới sự ổn định, sự độc quyền về tư tưởng của mình hơn. Trong khi đó bất kì một phát minh khoa học lớn nào cũng đều là kết quả của quá trình thay đổi các quan niệm về thế giới diễn ra bên trong óc não nhà bác học. Bức tranh đã thay đổi đó không thể nhét vào các khung triết lí chính thức giáo điều. Những người làm nghiên cứu khoa học trong chế độ cộng sản luôn luôn phải cân nhắc xem liệu có nên mạo hiểm, luôn luôn phải đề phòng sao cho phát kiến của mình không đi ra ngoài cái khung triết lí giáo điều để chính mình không bị coi là tà đạo.
Quan điểm coi chủ nghĩa Mác hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là phương pháp toàn năng, siêu hiệu quả đối với tất cả các lĩnh vực nghiên cứu, lãnh vực tinh thần hay bất kì lĩnh vực nào khác cũng gây trở ngại cho quá trình phát triển của khoa học. Ở Liên Xô không một nhà khoa học lớn nào thoát được các rắc rối về “đường lối chính trị”. Hoàn cảnh có thể khác nhau nhưng các nhà bác học thường xuyên bị săn đuổi vì phát minh của họ mâu thuẫn với hệ tư tưởng chính thống. Ở Nam Tư sự đàn áp có thể ít hơn, nhưng việc đề cao những nhà nghiên cứu “trung thành” về chính trị song lại yếu về chuyên môn cũng có thể được coi là biểu hiện khác của cùng một căn bệnh.
Chế độ cộng sản khuyến khích tiến bộ kĩ thuật nhưng đồng thời lại ngăn cản tất cả các cuộc nghiên cứu mang tính toàn diện, các nghiên cứu đòi hỏi rỡ bỏ mọi rào cản trong tư duy. Khó tin, nhưng đấy lại là sự thật.
Ngay cả nếu ta đồng ý rằng chế độ này chỉ hạn chế một cách vừa phải sự phát triển của khoa học thì nó vẫn là kẻ chuyên chế tuyệt đối đối với sự bay bổng của trí tuệ nhân danh những điều mới mẻ. Dựa trên chỉ một triết lí, nó chính là hệ thống phản triết học. Các chế độ này cho đến nay vẫn không sản sinh được một nhà tư tưởng, một nhà nghiên cứu xã hội học chân chính nào, nếu không kể chính các lãnh tụ, những người vừa “làm nghề nghiệp chính” vừa kiêm nhiệm “chức năng triết gia” và chuyên gia về “củng cố nhận thức” của nhân dân. Trong chế độ cộng sản các ý tưởng mới, triết lí mới hoặc lí thuyết xã hội học mới buộc phải đi theo những đường vòng lắt léo, thường là thông qua văn học hoặc những ngành nghệ thuật khác. Dù muốn dù không thì nó vẫn phải ẩn mình, phải chờ đợi “cơ hội thuận lợi” trước khi có thể xuất hiện, trước khi được có tấm giấy thông hành vào đời.
Khó khăn nhất là môn xã hội học vì để tìm chân lí nó phải so sánh các quan điểm, ý kiến, suy nghĩ khác nhau. Liệu có môn này không khi mà Marx và Engels đã phân tích hết rồi, khi mà các lãnh tụ đã giành độc quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến xã hội và xã hội học rồi?
Thực chất là lịch sử, đặc biệt là lịch sử giai đoạn cộng sản chưa hề được viết. Những hành động che giấu và ngụy tạo đã trở thành công việc thường nhật và với một mức độ không thể nào tưởng tượng nổi.
Truyền thống chính trị bị tiếm đoạt, di sản tinh thần của nhân dân bị cướp bóc. Những kẻ độc quyền đó hành xử như thể toàn bộ lịch sử trong quá khứ chỉ làm mỗi một việc là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với họ mà thôi. Quá khứ được họ đo với cái thước đo của họ, họ chia tất cả các sự kiện thành “tiến bộ” và “phản động”. Các đài kỉ niệm cũng được xây theo nguyên tắc ấy. Những kẻ tầm thường thì được dựng tượng còn tượng đài của các vĩ nhân (nhất là những người đương đại) thì bị phá đi.
“Phương pháp khoa học duy nhất” cuối cùng chỉ còn là phương tiện bảo vệ và biện hộ cho thái độ bất dung trong quá trình ép khoa học nói riêng và xã hội nói chung phải khuất phục tầng lớp đương quyền.

4.
Nghệ thuật cũng chịu chung số phận giống như khoa học.
Trong nghệ thuật sự tầm thường, những hình thức và quan niệm cũ rích được coi là khuôn mẫu bất di bất dịch, là đỉnh cao. Cũng dễ hiểu thôi: không thể có nghệ thuật thiếu tư tưởng, thiếu tương tác với môi trường xung quanh. Không có tác phẩm nghệ thuật lớn nào mà không có va chạm với những cấm đoán hoặc không bị giới cầm quyền chóp bu lên án. Chính vì muốn nắm độc quyền đối với nhận thức của người dân cũng như sự hạn chế và ngu dốt của họ mà cộng sản thường có thái độ bảo thủ đối với nghệ thuật. Biểu hiện dân chủ nhất của một nhà lãnh đạo cộng sản đối với trào lưu nghệ thuật mới là sự công nhận của ông ta rằng mặc dù không hiểu nhưng ông ta cho rằng có thể cho phép. Quan điểm của Lenin đối với chủ nghĩa vị lai của Mayakovski đã là như thế.
Mặc dù vậy, bên cạnh sự hồi sinh về kĩ thuật trong các nước cộng sản lạc hậu còn có sự hồi sinh cả về văn hoá cho dù dưới dạng văn hoá tuyên truyền, nhưng dù sao nhân dân cũng dễ tiếp cận hơn. Giai cấp mới quan tâm đến vấn đề này vì quá trình công nghiệp hoá đòi hỏi lao động phải có tay nghề cao. Đồng thời với tiến trình này là việc hình thành cơ chế uốn nắn nhận thức của nhân dân. Hệ thống trường học, các lớp xoá nạn mù chữ, các câu lạc bộ chuyên nghiệp và nghiệp dư phát triển rất nhanh, nhiều khi vượt cả nhu cầu và điều kiện thực tế. Dù sao thì sự tiến bộ trong lĩnh vực này là không thể chối cãi.
Ngay sau cách mạng, trong giai đoạn khi mà giai cấp cầm quyền còn chưa kịp giày xéo lên toàn thể xã hội thì thường có một số tác phẩm lớn. Đấy là Liên Xô những năm 30 và Nam Tư hiện nay. Cách mạng dường như đã đánh thức các tài năng, vốn là con đẻ của cách mạng, đang mơ màng, trái với ước muốn của chế độ chuyên chế trong việc đè nén các tài năng này.
Có hai phương cách đè nén: đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng mới và đấu tranh chống các hình thức thể hiện mới.
Dưới thời Stalin tất cả các hình thức không hợp khẩu vị lãnh tụ đều bị đàn áp. Mà khẩu vị của ông ta phải nói là không được tinh tế lắm. Tuân theo quan niệm chính thống về hình thức cũng là một việc bắt buộc hệt như việc phải học thuộc lòng các luận điểm chủ yếu vậy.
Tất nhiên việc tuân theo các hình thức nhất định không phải lúc nào cũng được thực hiện vì các hình thức này không phải là đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản. Năm 1925 Đảng cộng sản Liên Xô ban hành nghị định cho rằng Đảng không theo đuổi một xu hướng văn học nghệ thuật cụ thể nào. Đồng thời Đảng vẫn tiếp tục “giúp đỡ về mặt tư tưởng”, nghĩa là vẫn tiến hành theo dõi về mặt chính trị và tư tưởng các nghệ sĩ. Đấy là mức độ dân chủ tối đa đối với văn học nghệ thuật của chủ nghĩa cộng sản. Lãnh đạo Nam Tư hiện cũng có quan điểm như vậy. Sau năm 1953, cùng với việc xa rời các hình thức dân chủ và trở về với chủ nghĩa quan liêu trong quản lí, các thành phần thô lậu và phản động lại tiến hành chiến dịch chê bai, truy bức cái mà họ gọi là “trí thức tiểu tư sản” để thực hiện cho được mục đích là kiểm soát cả các hình thức trong lĩnh vực nghệ thuật nữa. Toàn bộ giai cấp trí thức đã đồng loạt đứng dậy thách thức chế độ. Chế độ đã phải lùi một bước. Trong một tuyên bố của mình Kardel đã nhấn mạnh rằng Đảng không bắt buộc các nghệ sĩ phải theo một hình thức nào, nhưng không cho phép tuyên truyền phản cách mạng, nghĩa là không cho phép các hình thức mà chế độ cho là “phi xã hội chủ nghĩa”. Thế là vô tình ông ta đã nhắc lại nghị định năm 1925 của Liên Xô đã nói ở trên. Đấy cũng là “mức trần” dân chủ mà Nam Tư dành cho lĩnh vực văn học nghệ thuật, nhưng thái độ của các đa số lãnh tụ đối với lĩnh vực này thì không thay đổi. Không bao giờ! Trong thâm tâm, họ luôn cho rằng giới văn nghệ sĩ là tầng lớp “tiểu tư sản”, không đáng tin. Tờ báo lớn nhất (tờ Chính sách số ra ngày 25 tháng 5 năm 1954) đã trích thuật lời Tito như một chân lí bất biến: “Một cuốn sách giáo khoa có ích bằng mấy cuốn tiểu thuyết”. Các phong trào phê phán các “xu hướng đồi truỵ”, các “quan điểm thù địch” vẫn thường diễn ra trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Khác với Liên Xô, nền văn học nghệ Nam Tư đã có nhiều hình thức thể hiện sự bất bình, lo lắng của xã hội. Điều đó cho đến nay vẫn không được phép ở Liên Xô. Có thể nói trên đầu nền văn học nghệ thuật Nam Tư vẫn treo lơ lửng một cái kiếm, nhưng ở Liên Xô thì mũi kiếm đã xuyên trúng tim.
Sự tự do tương đối về mặt hình thức biểu hiện không làm cho văn nghệ trở thành hoàn toàn tự do vì một lí do đơn giản là bất kì một tác phẩm nghệ thuật chân chính nào cũng nhất định phải thể hiện được các tư tưởng mới. Thế mà dù có được tự do đến đâu thì vẫn còn đó mâu thuẫn giữa hình thức tương đối tự do đó với việc kiểm soát gắt gao về mặt tư tưởng. Thỉnh thoảng mâu thuẫn này lại bùng lên: khi thì dưới hình thức phản ứng của chế độ với “các tư tưởng phản động”, khi thì dưới hình thức phản kháng của văn nghệ sĩ chống lại sự đàn áp. Đấy chính là sự đối đầu giữa xu hướng độc quyền của bên này và ước vọng sáng tạo của bên kia.
Thực chất đây là mâu thuẫn giữa đòi hỏi của tự do khám phá và giáo điều cộng sản được chuyển sang lĩnh vực văn nghệ.
Tất cả các tư tưởng mới đều phải bị kiểm soát, phải được cắt gọt cho vừa “khung an toàn”. Thực tế đã là như thế.
Các lãnh tụ cộng sản không thể giải quyết được mâu thuẫn này cũng như nhiều mâu thuẫn khác nữa. Như chúng ta đã thấy, họ chỉ có thể nới lỏng sợi dây trói buộc, nhưng không thể dành cho văn nghệ sự tự do đích thực được.
Do mâu thuẫn này mà trong chế độ cộng sản vấn đề vai trò của văn nghệ trước các đề tài do cuộc sống đặt ra không thể giải quyết được, cũng như các lí thuyết về sáng tạo nghệ thuật cũng không thể phát triển được.
Vì về bản chất tác phẩm nghệ thuật gần như bao giờ cũng tương tự như sự phê phán các quan hệ xã hội cũng như xã hội đương thời, sáng tạo ra các tác phẩm mang vấn đề thời sự trong chế độ cộng sản là việc bất khả. Chỉ được quyền ca ngợi cái hiện có và phê phán kẻ địch, một việc làm vô nhân đạo vì cái bị phê phán chính là cái bị săn đuổi và không có khả năng tự vệ. Trên một “cơ sở” như vậy thì việc tạo ra các tác phẩm đi vào các vấn đề thời sự, với một giá trị nào đó là việc bất khả.
Ở Nam Tư, giới chóp bu cũng như một số nhà hoạt động văn nghệ thường xuyên kêu ca rằng không có “tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Ở Liên Xô thì ngược lại, người ta “sáng tác” ra vô vàn tác phẩm mang đề tài thời sự, nhưng chính vì chúng không nói lên sự thật, giá trị của chúng rất đáng ngờ, những tác phẩm kiểu đó đã nhanh chóng rơi vào quên lãng.
Hình thức có thể khác nhau nhưng kết quả cuối cùng thì ở đâu cũng thế.

5.
Trong tất cả các nước cộng sản cái gọi là “phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa” chiếm thế thượng phong.
Tại Nam Tư lí thuyết này đã hoàn toàn thất bại, chỉ có những kẻ phản động giáo điều nhất là còn theo mà thôi. Trong lĩnh vực này cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, chế độ có thừa sức tận diệt tất cả mọi luồng tư duy lí luận không “phù hợp”, nhưng nó lại quá yếu, không thể nhồi sọ được quan điểm của mình. Có thể khẳng định rằng trong các nước Đông Âu khác, lí thuyết này cũng có một số phận tương tự như ở Nam Tư mà thôi.
Lí thuyết “phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa” không phải là một hệ thống hoàn chỉnh. Thuật ngữ “phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa” được Gorky sử dụng trước tiên. Quan điểm của ông có thể nói ngắn gọn là trong điều kiện của “chủ nghĩa xã hội” hiện nay, văn nghệ phải thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa và thể hiện càng chân thực đời sống thì càng tốt. Còn tất cả những điều khác (tính điển hình, tính đảng...) thì hoặc là được cóp nhặt từ các lí thuyết khác hoặc là được tạo ra từ các nhu cầu chính trị của chế độ.
Không được xây dựng thành một lí thuyết hoàn chỉnh, phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa trên thực tế chỉ có nghĩa là sự độc quyền về tư tưởng của cộng sản, là cố gắng khoác cho những tư tưởng phản động và hạn hẹp của các lãnh tụ hình thức nghệ thuật, là buộc phải ca ngợi sự nghiệp của họ dưới dạng những bản anh hùng ca. Cuối cùng thì lí thuyết này chỉ còn là sự biện hộ giả trá của một cơ chế kiểm duyệt quan liêu và theo dõi của chế độ mà thôi.
Trong các nước cộng sản khác nhau sự theo dõi được thực hiện theo những cách khác nhau: từ sự kiểm duyệt của bộ máy đảng cho đến áp lực “về mặt tư tưởng”.
Thí dụ ở Nam Tư chưa bao giờ có chế độ kiểm duyệt. Việc giám sát được thực hiện một cách gián tiếp thông qua các đảng viên ở các nhà xuất bản, các hội nghệ thuật, các tạp chí và báo, các đảng viên phải báo cáo ngay mọi “nghi ngờ” lên cấp trên. Kiểm duyệt thâm nhập vào ngay môi trường sáng tác, trở thành tự kiểm duyệt. Có trường hợp là ngay các đảng viên cũng “lừa” cả kiểm duyệt, nhưng bản năng tự kiểm duyệt đã buộc họ phải sống lá mặt lá trái và làm đủ điều hạ đẳng, vô luân khác.
Về nguyên tắc, ở Liên Xô cũng như ở mọi nước cộng sản khác các văn nghệ sĩ vẫn phải chịu trách nhiệm tự kiểm duyệt dù có hay không kiểm duyệt chính thức. Hơn thế nữa kiểm duyệt (tự kiểm duyệt) thường được thể hiện dưới dạng “giúp đỡ về tư tưởng”.
Các quan hệ xã hội buộc người ta, dù muốn dù không, phải tự kiểm duyệt, đây chính là hình thức theo dõi về tư tưởng chủ yếu của cộng sản. Giống như thời Trung cổ, trước khi sáng tác người nghệ sĩ phải biết nhà thờ muốn gì, trong chế độ cộng sản trước khi sáng tác người nghệ sĩ cũng phải “thâm nhập” vào tư duy, mà nhiều khi còn phải biết “khẩu vị” của các nhà lãnh đạo nữa.
Sự đàn áp, cấm đoán, bao cấp về tư tưởng và hình thức thể hiện, sự “chỉ đạo” của các viên chức quan liêu ngu dốt - tất cả đều được thực hiện nhân danh nhân dân và quyền lợi của nhân dân. Theo nghĩa này thì “hiện thực xã hội chủ nghĩa” ngay cả trên lời nói cũng không khác gì chủ nghĩa-xã hội dân tộc (phát xít - ND). Một nhà văn Nam Tư gốc Hung đã “phỏng vấn” các lí thuyết gia về nghệ thuật của hai hệ thống và được kết quả như sau:
L.I. Timofiev, lí thuyết gia Liên Xô: “Văn học là tư tưởng giúp con người nhận thức đời sống và cách hành xử trong cuộc đời”.
Grundgedanken Nationalsozialistischer Kulturpolitik (Những tư tưởng chủ đạo của chính sách văn nghệ Quốc xã): “Người nghệ sĩ không chỉ là nghệ sĩ, anh ta luôn luôn là một nhà giáo dục”.
Baldur von Schirach, lãnh tụ Hitlerjugend (Đoàn thanh niên Hitler): “Một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải hướng đến toàn thể nhân dân”.
Andrey Gdanov, Uỷ viên bộ chính trị đảng cộng sản Liên Xô: “Mọi tác phẩm vĩ đại đều dễ hiểu”.
Wolfgang Schultz viết trong Grundgedanken...: “Chính sách của chủ nghĩa xã hội dân tộc, trong đó có chính sách văn học là do lãnh tụ và những người mà ông tín nhiệm quyết định... Nếu ta muốn biết chính sách của chủ nghĩa xã hội dân tộc là gì thì chúng ta chỉ cần nhìn vào những người ấy, nhìn xem họ đang làm gì, họ đang đưa ra những chỉ thị nào để cố kết xung quanh mình những người đồng chí hướng, những người nhận thức được trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao”.
Emelian Yaroslavsky nói tại đại hội XVIII đảng cộng sản Nga (bolshevik): “Đồng chí Stalin động viên các văn nghệ sĩ, giao cho họ các tư tưởng chỉ đạo... Nghị quyết ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Nga (bolshevik) và báo cáo của đồng chí A. A. Gdanov đã đưa ra cho các văn nghệ sĩ Liên Xô một chương trình công tác hoàn chỉnh”.
Các chế độ chuyên chế thù địch nhau cùng tiến hành sự tự biện hộ giống nhau đến nỗi phải sử dụng cách nói giống hệt nhau.

6.
Bằng cách đàn áp tư duy khoa học và tự do dân chủ, các ông trùm cộng sản đã làm băng hoại tinh thần của toàn thể nhân dân. Các chủ đất phong kiến và các ông trùm tư bản trả tiền cho các văn nghệ sĩ theo kiểu của họ và trong khi giúp đỡ về mặt vật chất, họ đã mua chuộc những người đó. Trong chế độ cộng sản sự mua chuộc là một phần của chính sách quốc gia.
Nguyên tắc của chế độ cộng sản là nắm ngay lấy cổ, đè bẹp ngay mọi hoạt động tinh thần (chủ yếu là các tác phẩm độc đáo, sâu sắc), mặt khác khen thưởng hậu hĩnh, động viên, mua chuộc thẳng thừng tất cả những gì mà hệ thống cho là có ích cho “chủ nghĩa xã hội” nghĩa là cho chính nó.
Ngay cả nếu để sang một bên những hình thức mua chuộc trắng trợn (huân chương Stalin, sự bảo trợ, nhuận bút cao khi thực hiện các đơn đặt hàng..vv..) thì sự thật vẫn là: chế độ cố tình mua chuộc giới trí thức, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ. Dù có bỏ kiểm duyệt và các phần thưởng đủ mọi loại thì mua chuộc và áp lực vẫn cứ hiện diện khắp nơi.
Cơ sở của sự mua chuộc và áp lực là chế độ độc quyền quan liêu đảng trị đang nô dịch toàn bộ xã hội.
Người nghệ sĩ biết trốn đi đâu?
Dù nói về tư tưởng hay đồng lương thì đấy cũng là một sức mạnh mà anh ta không thể nào vượt qua được. Mặc dù sức mạnh này không phải là quyền lực trực tiếp, nó vẫn ngấm vào mọi ngõ ngách. Tiếng nói cuối cùng luôn luôn thuộc về nó.
Đối với người nghệ sĩ thì điều quan trọng là làm sao để áp lực càng nhẹ càng tốt, dù điều đó cũng chẳng có ảnh hưởng gì đến vị trí của anh ta trong xã hội. Vì vậy đối với một văn nghệ sĩ thì ở Nam Tư sẽ dễ chịu hơn ở Liên Xô nhiều.
Người nô lệ không có gì để chọn, anh ta buộc lòng phải chấp nhận sự băng hoại về mặt tinh thần. Nếu có ai quan tâm đến nguyên nhân vì sao một phần tư thế kỉ qua Liên Xô không có một tác phẩm nghệ thuật lớn nào (đặc biệt là trong văn học) thì người đó sẽ phát hiện ra rằng sự băng hoại trí thức đóng vai trò không nhỏ hơn (nếu không nói là lớn hơn) sự nô dịch.
Truy bức, bôi nhọ, buộc phải tự thú một cách nhục nhã (tự phê bình) những văn nghệ sĩ chân chính, đồng thời lôi kéo những kẻ dễ bảo bằng nhuận bút cao, phần thưởng lớn, nhà lầu, xe hơi, cho các chức vụ khác nhau... - bằng các chế độ ưu tiên như thế, hệ thống cộng sản đã lựa chọn được sự tầm thường, được những người chỉ biết phục tùng và không có khả năng sáng tạo.
Không có gì phải ngạc nhiên khi các văn nghệ sĩ lớn bị đặt trước sự lựa chọn giữa một cuộc sống đói khát (còn bị đe doạ suốt đời nữa) và “ân sủng” của các ông chủ, đã mất phương hướng và cùng với nó là niềm tin và sức mạnh vốn có của mình. Tự sát, tuyệt vọng, chạy trốn vào rượu chè, mất sự ổn định nội tâm, mất sự toàn vẹn của cá tính là kết quả của quá trình lừa dối và tự lừa dối - đấy là số phận của những người thực sự muốn và có thể tạo ra cái mới. Tâm hồn con người buộc phải sáng tạo vì nó không thể không sáng tạo trong tuyệt vọng nhưng dưới cái mặt nạ là chủ nghĩa lạc quan như thế đấy. Lương tâm con người tồn tại cả trong những những điều kiện như thế, đấy có phải là minh chứng rằng nó là bất khả chiến bại và đấy có phải là chỉ dấu về sự khốn cùng và bệnh hoạn của hệ thống không?

7.
Người ta thường cho rằng chuyên chính cộng sản thực hiện kì thị giai cấp một cách trắng trợn. Nhưng không hoàn toàn như vậy.
Sau cách mạng sự kì thị giai cấp ngày càng giảm, còn sự kì thị về tư tưởng thì ngày càng tăng. Quan niệm cho rằng chính quyền thuộc về giai cấp vô sản cũng sai như quan niệm cho rằng cộng sản truy bức con người chỉ vì họ thuộc về giai cấp tư sản. Không nghi ngờ gì rằng cộng sản đánh các giai cấp hữu sản, đặc biệt là tư sản. Nhưng những người đã đầu hàng, những người đã “cải tạo” vẫn có thể tìm được một chỗ “ấm cúng” và được chính quyền “thể tất”. Hơn thế nữa, cảnh sát mật thường lựa được các gián điệp tài ba còn các ông chủ thì tìm được đầy tớ trong số “tư sản đã cải tạo” này. Nhưng những người nghi ngờ các quan điểm và biện pháp của cộng sản thì đừng hòng được tha thứ. Ở đây thành phần xuất thân không quan trọng, chống quốc hữu hoá hay chỉ là những người quan sát vô tình cũng vậy mà thôi, tư tưởng là thống soái.
Cần phải nói thêm rằng sự truy bức các tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa khác với cách nghĩ của tầng lớp chóp bu lại còn dữ dội hơn, mãnh liệt hơn cả cuộc đấu tranh với các quan điểm phản động nhất của những người ủng hộ chế độ cũ. Dễ hiểu vì người ủng hộ chế độ cũ không nguy hiểm bằng, quan niệm của họ hướng về quá khứ, nó có thể gây phiền phức nhưng cơ hội để phục hồi, để chiến thắng là rất nhỏ.
Sau khi nắm được chính quyền cộng sản liền tấn công tư hữu và bằng cách đó tạo ra ảo tưởng rằng họ làm thế là vì quyền lợi của người lao động. Nhưng sau này mới rõ rằng không hoàn toàn như thế, cơ sở của những hành động đó là ước muốn thống trị, mà thống trị chỉ có thể thực hiện thông qua kì thị về mặt tư tưởng (chứ không phải giai cấp). Nếu vấn đề được đặt khác đi (thí dụ thực sự trao tài sản vào tay người lao động) thì kì thị giai cấp sẽ chiếm thế thượng phong ngay.
Sự kiên trì kì thị tư tưởng như thế có thể làm cho người ta nghĩ rằng cộng sản là một giáo phái tin tưởng tuyệt đối vào các điều răn duy vật-vô thần của mình và dùng sức mạnh ép buộc những người khác cũng tin như họ. Cộng sản hành động như một giáo phái nhưng thực ra không phải như vậy.
Hệ tư tưởng toàn trị không phải là kết quả của một hình thức quyền lực và sở hữu cụ thể. Tuy nó có đóng góp vào quá trình hình thành quyền lực và sở hữu nhưng nó là chỗ dựa vững chắc nhất của quá trình phát triển đó. Kì thị tư tưởng là điều kiện cần thiết sống còn của chế độ cộng sản.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng các hình thức kì thị khác như chủng tộc, giai cấp, dân tộc là những kì thị nặng nề hơn kì thị tư tưởng. Bề ngoài chúng có vẻ là như thế nhưng các dạng kì thị đó chưa bao giờ đạt đến độ tinh vi và toàn diện như kì thị về tư tưởng. Các dạng kì thị đó chỉ ảnh hưởng đến những bộ phận nào đó của xã hội trong khi kì thị tư tưởng ảnh hưởng đến toàn xã hội và từng thành viên riêng biệt. Loại thứ nhất giày xéo con người về mặt thể xác. Kì thị tư tưởng đánh vào ngay cái Người nhất trong từng cá nhân. Khủng bố về mặt tinh thần là sự khủng bố dã man và toàn diện nhất, nó là sự khởi đầu và kết thúc của mọi sự khủng bố.
Trong hệ thống cộng sản kì thị tư tưởng được thể hiện, một mặt như là sự cấm đoán các tư tưởng “không phù hợp” và mặt khác là bắt buộc chấp nhận các tư tưởng của hệ thống. Đấy chỉ là hai khía cạnh rõ nhất của sự đàn áp không bút nào tả xiết được. Tư tưởng chính là sức sáng tạo có hiệu quả nhất. Sống, lao động mà không suy nghĩ, không tưởng tượng là điều bất khả. Tuy phủ nhận nhưng cộng sản vẫn phải tính đến đặc trưng ấy của con người. Vì vậy họ mới đàn áp mọi tư tưởng “không phù hợp”, nhất là khi các tư tưởng đó được đưa ra để giải quyết các vấn đề mà xã hội đang gặp phải.
Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.
Hạn chế tự do tư tưởng không chỉ là cuộc tấn công vào những nhóm chính trị hay xã hội cụ thể, mà là cuộc tấn công vào tính ngưới, tính nhân bản của con ngưới nói chung.
Dù thế khát vọng tự do, tự do tư tưởng, khát vọng cải thiện và mở rộng sản xuất của con người không bao giờ phai nhạt, nó luôn luôn được thể hiện như một mệnh lệnh của những lực lượng nhất định. Nếu trong các chế độ cộng sản các mệnh lệnh đó chưa có biểu hiện rõ ràng thì cũng không có nghĩa là chúng không tồn tại. Điều đó chỉ có nghĩa là chúng đang hình thành, đang vươn lên từ trong lòng nhân dân mà thôi. Sự áp bức toàn trị dường như đã xoá tan ranh giới giữa các tầng lớp nhân dân, nhân dân đang tập hợp lại để đòi tự do. Trong đó có tự do tư tưởng.
Lịch sử sẽ tha thứ cho những người cộng sản nhiều tội lỗi mà họ đã phạm do hoàn cảnh, do nhu cầu tự vệ, nhu cầu sống còn. Nhưng bóp nghẹt mọi quan điểm khác biệt, sự bất dung, sự độc quyền về tư tưởng chỉ để nhằm bảo vệ những quyền lợi ích kỉ của họ là những tội lỗi không thể tha thứ. Chủ nghĩa cộng sản sẽ phải đứng chung một hàng với những tội lỗi nhục nhã khác trong lịch sử: toà án giáo hội và các đống lửa thiêu người thời Trung cổ. Cộng sản có thể giành được vị trí “vinh quang nhất” trong đám ấy.

Mục đích và phương tiện
1.
Các nhà cách mạng và các cuộc cách mạng không bao giờ từ chối sử dụng các biện pháp vũ lực và đàn áp.
Nhưng chưa có cuộc cách mạng nào, chưa có nhà cách mạng nào lại sử dụng bạo lực một cách có ý thức, đưa bạo lực thành hoàn thiện, thành công việc thường ngày như những người cộng sản.
“Không được lựa chọn phương tiện trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của chế độ... hãy đàn áp tất cả những ai không có ích, không giúp gì cho nước cộng hoà”. Dường như đấy không phải là những lời của Saint-Just mà được phát ra từ miệng lưỡi các lãnh tụ cộng sản đương đại vậy. Nhưng Saint-Just nói những lời này khi ngọn lửa cách mạng đang hừng hực cháy, khi lòng ông tràn ngập nỗi đau cho số phận của cách mạng, còn cộng sản thì khẳng định điều đó trong suốt cuộc hành trình, từ khi bước ra vũ đài chính trị cho đến lúc đạt đến đỉnh cao quyền lực và bắt đầu tan rã.
Mặc dù bạo lực cộng sản bao trùm hơn, kéo dài hơn, dã man hơn nhưng có thể nói rằng ngay trong cách mạng họ thường biết lựa chọn phương tiện hơn là các đối thủ của mình. Nhưng sau cách mạng thì phương pháp của họ, tuy ít đẫm máu hơn, nhưng càng ngày lại càng phi nhân hơn.
Nếu không kể đến hoàn cảnh lịch sử đó thì chủ nghĩa cộng sản cũng như bất kì phong trào chính trị-xã hội nào cũng buộc phải sử dụng một loạt các biện pháp (chính trị là chính trị) phù hợp với quyền lợi và phân bố lực lượng trong xã hội bất kể lí lẽ, bất kể đạo đức.
Ở đây chúng ta chỉ xem xét những biện pháp làm cho chủ nghĩa cộng sản hiện đại khác biệt với các phong trào chính trị xã hội khác, tuỳ hoàn cảnh, có thể dã man hơn, phi nhân hơn hay nhân đạo hơn các phong trào kia. Cũng như trong các lĩnh vực khác, chúng ta chỉ quan tâm tới sự khác biệt, tính đặc thù của các biện pháp được cộng sản sử dụng, nghĩa là chỉ quan tâm tới sự khác biệt giữa cộng sản và các phong trào khác, không cần biết đấy là có phải là phong trào cách mạng hay không.
Ta có thể nói ngay rằng sự dã man không phải là điểm “khác biệt” của các biện pháp cộng sản. Dã man là điều dễ thấy nhưng không phải là điểm khác biệt chủ yếu. Phong trào đặt cho mình nhiệm vụ khó khăn như thế - bằng bạo lực thay đổi toàn bộ nền kinh tế cũng như toàn xã hội - nhất định phải sử dụng các biện pháp dã man. Nhưng các phong trào cách mạng trước đó cũng đã buộc phải làm như vậy hay buộc phải tiến đến cách làm như vậy. Tiến đến nhưng không thành: giai đoạn bạo lực của họ không thể kéo dài. Và không thể toàn diện như bạo lực cộng sản: hoàn cảnh không cho phép.
Cũng không thể cho rằng cộng sản áp dụng các biện pháp ấy là do họ là những người không có các nguyên tắc đạo đức nhất định.
Những người cộng sản ngoài việc là cộng sản họ cũng là những con người bình thường, trong giao tiếp với những người khác họ buộc phải tuân thủ những nguyên tắc đạo đức của cộng đồng. Chân không đạo đức của họ không phải là nguyên nhân mà là kết quả của những biện pháp mà họ áp dụng. Trong tất cả các bộ luật cũng như trên lời nói, cộng sản luôn luôn tỏ ra là những chiến sĩ đấu tranh kiên cường để bảo vệ đạo đức và chủ nghĩa nhân đạo. Đôi khi họ có vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức của mình thì cũng chỉ là do hoàn cảnh bắt buộc mà thôi. Nếu không phải làm như vậy thì sẽ tốt biết bao, họ vẫn thường nói như thế. Về điểm này thì họ cũng gần giống với các phong trào kia, nếu có khác thì chính tính chất phi nhân của họ được thể hiện dưới những hình thức phải gọi là quái gở và kéo dài hơn mà thôi.
Các biện pháp bạo lực chính là những chỉ dấu phân biệt rõ nhất cộng sản với các phong trào chính trị khác. Điều kiện lịch sử và nhiệm vụ mà phong trào cộng sản muốn giải quyết là nguồn gốc của những biện pháp ấy.
Có một sự khác biệt căn bản mà mới nhìn người ta có thể cho rằng chủ nghĩa cộng sản có những nét tương đồng với những giáo phái trong quá khứ.
Đấy là những mục đích “lí tưởng”, người cộng sản có thể áp dụng mọi thủ đoạn nhân danh những mục đích ấy. Thêm nữa thủ đoạn lại ngày càng trắng trợn hơn khi mục đích “lí tưởng” ngày càng xa vời hơn.
Nếu trong quá trình cách mạng người cộng sản phải sử dụng những biện pháp mà đối thủ cũng như tiến trình đấu tranh bắt buộc phải làm như thế, thì sau khi đã nắm được chính quyền, sau khi đã tiêu diệt được những kẻ thù trực tiếp, việc tiếp tục sử dụng những biện pháp đó, thậm chí những biện pháp đàn áp dã man hơn vì “lí tưởng” như “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa cộng sản”, “quyền lợi của giai cấp công nhân và của toàn thể nhân dân lao động” là điều không những không thể biện hộ được về mặt đạo đức mà còn chứng tỏ họ là những kẻ bất lương và tham quyền tàn nhẫn. Các giai cấp cũ, đảng phái cũ, hình thức sở hữu cũ đã không còn hoặc đã bị vô hiệu hoá, không thể kháng cự, nhưng biện pháp thì vẫn như cũ. Hơn nữa, chỉ đến lúc này việc sử dụng chúng mới thể hiện rõ tính phi nhân của toàn thể hệ thống.
Tính chất bất nhân của các biện pháp đàn áp của Stalin đạt đỉnh điểm chính trong quá trình xây dựng “chủ nghĩa xã hội”. Khi tuyên bố quyền lợi của mình là mục đích tối thượng mà xã hội nhất định phải tiến tới, khi đã tạo được cho mình sự độc quyền trong lĩnh vực tinh thần cũng như các lĩnh khác, giai cấp mới tìm mọi cách hạ thấp giá trị của phương tiện. Họ thường tuyên bố: “Quan trọng là mục đích, phương tiện chỉ là thứ yếu”. “Điều quan trọng là chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, những việc khác rồi sau sẽ hay”, cộng sản thường biện hộ cho những hành động tội lỗi đê tiện của mình như thế đấy.
Mục đích biện minh cho mọi phương tiện, mà phương tiện ở đây chính là đảng. Đảng ngồi trên đầu trên cổ xã hội, giống như nhà thờ Trung cổ, đảng biện minh cho chính mình.
“Khi gặp nguy hiểm nhà thờ vứt bỏ hết mọi lời răn. Coi sự thống nhất là mục đích, nó đã dùng mọi phương tiện: lừa dối, phản bội, đàn áp, mua quan bán tước, nhà tù và án tử hình. Vì mọi chế độ đều nhân danh những mục đích chung nào đó và cá nhân phải hi sinh cho sự nghiệp chung” (Dietrich von Nieheim, Hồng y Verden)
Câu này như được phát ra từ miệng lưỡi của một trong những lãnh tụ cộng sản vậy.
Mặc dù chủ nghĩa cộng sản đương đại khá giống với chủ nghĩa phong kiến (thí dụ tính chất giáo điều đến mức cuồng tín) nhưng chúng ta không sống dưới thời Trung cổ và cộng sản cũng không phải nhà thờ.
Bề ngoài cộng sản giống với nhà thờ Trung cổ vì cả hai đều có tham vọng độc quyền về tư tưởng và cả các lĩnh vực khác, cả hai đều áp dụng cùng một biện pháp “tác động”. Nhưng thực chất thì đây là hai hiện tượng khác nhau. Nhà thờ chỉ nắm một phần quyền lực và sở hữu, trong trường hợp xấu nhất thì nó cũng chỉ đòi độc quyền trong lĩnh vực tinh thần nhân danh hệ thống xã hội đương thời. Những kẻ dị giáo thường bị truy bức nhân danh đức tin chứ không nhằm một lợi ích cụ thể nào vì lúc đó người ta cho rằng thân thể kẻ dị giáo có bị giết đi thì tâm hồn tội lỗi của hắn mới được cứu, nghĩa là mọi phương tiện trần thế đều có thể được sử dụng nhân danh thiên đường.
Trong khi đó, tham vọng của cộng sản là quyền lực trực tiếp, là chiếm và giữ chính quyền nhà nước. Và cả quyền lực trong lĩnh vực tinh thần nữa, sự truy bức nhân danh “đức tin” chỉ là biện pháp phụ trợ để củng cố quyền lực mà thôi. Khác với các cố đạo, cộng sản không phải là điểm tựa của chế độ, họ chính là “hiện thân” của quyền lực.
Nói tất cả những điều này để thấy rằng vì sao người cộng sản về lí thuyết không phải là những người sử dụng các phương tiện một cách bừa bãi, trên thực tế lại phản bội chính những nguyên tắc của mình. Vì giai cấp mới không xuất hiện như một hiện tượng nhất thành bất biến mà biến đổi từ lực lượng cách mạng thành giai cấp hữu sản và phản động, nghĩa là các phương tiện của nó vẫn giữ cái vỏ bên ngoài nhưng nội dung thì cùng với thời gian đã từ cách mạng trở thành phản động, từ tự vệ thành đàn áp, áp bức.
Các phương tiện của cộng sản vốn là vô đạo đức và trắng trợn, chúng cũng sẽ vẫn là như thế ngay cả khi về hình thức đã không còn quá dã man như cũ. Quyền lực toàn trị tuyệt đối không từ bất kì thủ đoạn nào.
Cộng sản đã tiến hành áp bức, cướp bóc, thủ tiêu con người mà không cần nhà tù và giá treo cổ. Điều đó được thưc hiện bằng cách tước đoạt khả năng gây ảnh hưởng của người dân đối với những thay đổi diễn ra trong xã hội, bằng cách tước quyền làm chủ ngay chính sức lao động của họ, không cho họ được quyền nói lên suy nghĩ của mình. Cộng sản đã biến tài sản xã hội thành tài sản của giai cấp mình, hứa huỷ bỏ nhà nước cùng với quá trình dân chủ hoá, nhưng trên thực tế càng ngày càng củng cố quyền lực của chế độ chuyên chế; họ cũng làm tương tự như thế với các phương tiện đàn áp: nếu họ có nới lỏng các biện pháp khi không còn kẻ thù hoặc kẻ thù đã bị vô hiệu hoá thì cũng chỉ có tính chất tượng trưng.
Cộng sản đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng họ không thể từ bỏ nguyên tắc “mục đích biện minh cho phương tiện”, phương tiện bảo vệ quyền thống trị tuyệt đối và quyền lợi ích kỉ của họ.
Dù không muốn, cộng sản vẫn cứ là những chủ sở hữu và những kẻ chuyên chế, không từ bất cứ thủ đoạn nào. Trái với những lí thuyết đẹp đẽ và những dự định tốt đẹp, hệ thống bắt buộc họ phải làm như thế. Khi một cái gì đó đã trở thành tất yếu thì nhất định hệ thống sẽ biến một số tù nhân tinh thần của mình thành những kẻ thực hiện tự nguyện.

2.
Cộng sản thường nói đến “đạo đức cộng sản” , đến “con người mới xã hội chủ nghĩa” như là những phạm trù đạo đức cao cả. Nhưng những khái niệm đó chỉ có một nghĩa duy nhất: đoàn kết để chống lại mọi ảnh hưởng từ bên ngoài. Trên thực tế chúng không phải là những phạm trù đạo đức.
Và mặc dù người cộng sản không có những qui tắc hành xử đặc biệt nào cũng như không thể có “con người xã hội chủ nghĩa”, nhưng cộng sản cố tình đưa vào hàng ngũ của mình “quan điểm riêng” về đạo đức: không phải như những nguyên lí tuyệt đối mà là những tiêu chuẩn động, ăn sâu bén rễ, thâm căn cố đế trong hệ thống thang bậc, nơi cấp trên có thể làm nhiều việc mà nếu cấp dưới vi phạm và bị phát hiện thì sẽ bị “ăn đòn” đủ.
Thái độ và tiêu chuẩn đạo đức mang tính biệt phái của họ không phải là những tiêu chuẩn hoàn hảo và ổn định mà trải qua một quá trình phát triển lâu dài, đôi khi chính chúng cũng có đóng góp vào việc đưa giai cấp mới lên những tầng cao mới. Kết quả là đã hình thành nên những tiêu chuẩn đạo đức bất thành văn, phục vụ cho nhu cầu của tầng lớp chóp bu, tuy bất thành văn nhưng lại là những tiêu chuẩn bắt buộc. Nói tóm lại, quá trình hình thành tiêu chuẩn đạo đức mang tính biệt phái đó trùng hợp với việc thăng tiến của giai cấp mới, các tiêu chuẩn đó thực chất là nguyên tắc “mục đích biện minh cho phương tiện”, không chấp nhận các phạm trù đạo đức chung của nhân loại nữa.
Xin khảo sát từng vấn đề một cách cụ thể hơn.
Tiêu chuẩn đạo đức cộng sản cũng như mọi tiêu chuẩn đạo đức mang tính biệt phái khác, khởi kì thuỷ tuy thuộc về một phong trào khép kín nhưng vẫn là các tiêu chuẩn nhân bản nói chung chứ chưa phải hoàn toàn mang tính giáo phái hay biệt phái. Không phải vô tình mà phong trào cộng sản đã xuất hiện như một phong trào có tính lí tưởng và hi sinh nhất, đã tập hợp được trong đội ngũ của mình những người con ưu tú nhất, dũng cảm nhất và dĩ nhiên là cũng đức hạnh nhất của dân tộc.
Kết luận này và tất cả những kết luận nói đến ở trên liên quan đến các nước mà phong trào cộng sản sinh ra và giành được sức mạnh trong lòng dân tộc ( Nga, Nam Tư, Trung Quốc).
Khắp mọi nơi phong trào cộng sản đều bắt đầu từ ước mơ về những điều tốt đẹp hơn, ước mơ về lí tưởng; chính vì thế nó mới hấp dẫn những người đức hạnh. Đồng thời, là một phong trào quốc tế, như cây hướng dương tìm mặt trời, nó luôn hướng về nơi có phong trào mạnh nhất, nơi phong trào đã giành được chính quyền. Cho đến nay đấy chính là Liên Xô. Vì vậy phong trào cộng sản ở những nước chưa giành được chính quyền đã mất chất cộng sản lúc đầu và tiếp thu những phẩm chất cộng sản cầm quyền. Các lãnh tụ cộng sản ở phương Tây hiện nay cũng có thói quen xuyên tạc sự thật và lèo lái các tiêu chuẩn đạo đức hệt như các đồng nghiệp của họ ở Liên Xô. Nói chung, trong giai đoạn đầu, cộng sản là phong trào của những người đức hạnh, nguyên tắc đạo đức đó được người ta gìn giữ như báu vật và đấy là lí do của những cuộc khủng hoảng, hậu quả của những hành động vô luân và duy ý chí của các lãnh tụ về sau này.
Lịch sử có chưa nhiều các phong trào bắt đầu và phát triển trên những nguyên tắc cao thượng và với những chiến sĩ xả thân vì sự nghiệp, đoàn kết vì lí tưởng, gắn bó bằng tình yêu, tình đồng chí, lòng chân thành, sự nhiệt tình, sinh ra trong bão lửa đấu tranh nơi họ hoặc sẽ chiến thắng hoặc sẽ chết như thế. Cùng làm việc, ước nguyện có cùng suy nghĩ và cảm xúc, cùng chia sẻ niềm vui, hi sinh cá nhân cho sự nghiệp của đảng, của tập thể, sẵn sàng hi sinh vì đồng đội, thương yêu thanh thiếu nên, chăm sóc người già cả, đấy là đặc điểm của những người cộng sản trong giai đoạn khi mà phong trào đang hình thành như một phong trào cộng sản chân chính. Đảng viên nữ, đấy không chỉ là một chiến hữu, một người đồng chí bình thường. Cần luôn luôn nhớ rằng chị đã hi sinh tất cả khi tham gia phong trào, cả tình yêu, cả khả năng làm mẹ. Giữa đàn ông và đàn bà đã hình thành mối quan hệ trong sáng, ấm áp, một mối tình đồng chí lí tưởng, bảo bọc lẫn nhau. Lòng trung thành, tương trợ lẫn nhau, chân thành trong từng ý nghĩ cao thượng nhất, đấy là những nét đặc trưng của những người cộng sản chân chính lúc đó.
Nhưng đấy là ở những giai đoạn ban đầu, khi phong trào chưa được nếm vị ngọt ngào của quyền lực.
Để có những đặc trưng đó phong trào phải đi qua những đoạn đường dài, đầy chông gai, thử thách. Phong trào cộng sản đã lôi cuốn được những thành viên của nhiều tầng lớp và lực lượng xã hội khác nhau. Sự đồng nhất về mặt tâm lí không thể xuất hiện ngay, trước đó nhất định phải diễn ra quá trình va chạm của những nhóm, những phe cánh khác nhau và chiến thắng (nếu điều kiện khách quan cho phép) sẽ thuộc về phe nhận rõ thực chất của phong trào và vì vậy cũng là phe thể hiện giá trị đạo đức cao nhất. Trải qua các cuộc khủng hoảng về đạo đức, qua các âm mưu về chính trị, các trò lừa đảo bẩn thỉu, các trò vu cáo lẫn nhau, các cuộc xung đột nội bộ, các vụ vỡ mộng về tinh thần cũng như trí tuệ, phong trào phát triển mãi lên, tạo ra hạt nhân lãnh đạo và giáo lí, đạo đức và tâm lí, phong cách và phương pháp làm việc.
Phong trào cộng sản trở thành một phong trào cách mạng thật sự và như ta đã thấy, trong một giai đoạn ngắn, đã có những phẩm chất đạo đức cao thượng. Đã có một giai đoạn khi lời nói thường đi đôi với việc làm, nói đúng hơn những người lãnh đạo phong trào, những người trung thành nhất, những người cộng sản chân chính đã thực sự tin vào lí tưởng của mình và một lòng một dạ thực hiện lí tưởng ấy. Đấy là giai đoạn trước cuộc đấu tranh vũ trang giành chính quyền, là nói các phong trào phải trải qua giai đoạn như vậy.
Tất nhiên đấy là đạo đức có tính biệt phái, nhưng là đạo đức cao thượng. Đây là một phong trào khép kín cho nên nó thường khó nhìn nhận được sự thật, mặc dù như thế không có nghĩa là người ta không tìm kiếm và không biết giá trị của sự thật. Tính biệt lập về trí thức và đạo đức là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài vì sự thống nhất về tư tưởng và hành động, ta sẽ khó tưởng tượng nổi một phong trào cộng sản cách mạng thiếu những đặc trưng vừa kể. “Thống nhất về ý chí và hành động” sẽ không thể nào xảy ra nếu thiếu sự thống nhất về tâm lí và đạo đức. Và ngược lại. Nhưng chính sự thống nhất về đạo đức và tâm lí tự phát như thế, không cần một nội qui và qui tắc nào, đã trở thành một thói quen và làm cho cộng sản thành một gia đình cố kết, bảo vệ lẫn nhau, có cùng cách phản ứng, có cùng những suy nghĩ và tình cảm, người bên ngoài không thể hiểu và không thể xâm nhập được. Sự xuất hiện một tổ chức thống nhất về đạo đức và tâm lí như thế là dấu chỉ rằng phong trào cộng sản đã đứng vững và trước mắt những người ủng hộ nó cũng như trước mắt nhiều người khác đây đã là một cơ thể duy nhất, một tâm hồn duy nhất, một bàn tay đã nắm thành quả đấm. Đấy là một phong trào đoàn kết nhất trí đầy tương lai. Nhưng đấy là cái tương lai khác hẳn với ước nguyện ban đầu.
Tất cả rồi sẽ qua đi, sẽ bạc màu, sẽ tan dần trong quá trình tiến đến đỉnh cao của quyền lực. Chỉ còn lại hình thức và những thói quen rỗng tuếch, nội dung thực sự đã bị thay thế từ lâu.
Sự thống nhất hình thành trong cuộc đấu tranh với kẻ thù và những nhóm “nửa” cộng sản khi đối diện với một nhóm chóp bu nắm quyền (thường là một ông vua “xã hội chủ nghĩa”) đã biến thành sự thống nhất của những tên tay sai, những kẻ quan liêu “ăn theo nói leo” bám vào phong trào. Thói luồn cúi, nịnh bợ, không dám phát biểu công khai, sự can thiệp vào đời sống riêng tư (sự tương trợ có tính đồng chí trước đây đã trở thành vũ khí nô dịch của nhóm đương quyền), hệ thống cấp bậc và khép kín, phụ nữ chỉ còn vai trò thứ yếu và mang tính tượng trưng, thói bon chen, ích kỉ, đố kị và thù hận – càng gần đến lúc giành được chính quyền thì những thói hư tật xấu nói trên càng xuất hiện nhiều và thế chỗ dần cho những phẩm chất cao thượng ban đầu. Tính nhân bản của một phong trào khép kín đã trở thành thói đạo đức giả của một giai cấp đặc quyền đặc lợi. Lòng chân thành cách mạng giữa các đồng chí với nhau cũng chấm dứt, mánh khoé và dự giả dối lại thành lẽ sống. Những người anh hùng (những người còn sống và chưa bị hất ra khỏi guồng máy) mới ngày hôm qua còn sẵn sàng hi sinh tất cả, kể cả mạng sống của mình vì người khác, vì lí tưởng và hạnh phúc của nhân dân đã trở thành những kẻ ích kỉ hèn nhát, chẳng còn lí tưởng, cũng chẳng còn ai là đồng chí của ai nữa. Họ sẵn sàng từ bỏ danh dự, từ bỏ chân lí và đạo đức miễn là được ở lại trong giai cấp cầm quyền, miễn là giữ được chiếc ghế trong bộ máy. Nếu trước đây thế giới ít khi được thấy nhiều người anh hùng như thế, nhiều người sẵn sàng chịu hi sinh, chịu đau khổ, nhiều người có niềm tin, thông minh và không khoan nhượng như thế (những người cộng sản đã là như vậy trước và trong cách mạng) thì thế giới cũng chưa từng biết nhiều kẻ hèn nhát thiếu tư cách đến như thế, những người anh hùng ngày hôm qua, khi vừa nắm được quyền lực liền biến thành những kẻ bảo vệ mù quáng những khẩu hiệu đã mất hết sức sống. Chỉ vì quyền lực, vì đặc quyền đặc lợi mà thôi. Những phẩm chất nhân bản tuyệt vời là điều kiện tạo ra phong trào, là sự hấp dẫn và sức mạnh của phong trào ấy, thì tinh thần bè phái, sự chà đạp đạo lí và đức hạnh lại là điều kiện bảo đảm cho sự hùng mạnh và sự sống còn của chính nó. Nếu trước đây sự trung thực, lòng chân thành, đức hi sinh, tình yêu chân lí là một cái gì đó hoàn toàn tự nhiên, là điều kiện tham gia phong trào và điều kiện để chính phong trào tồn tại, thì nay sự giả trá cố ý, âm mưu, vu khống, xuyên tạc, khiêu khích đã dần trở thành những hiện tượng đồng hành không thể thiếu của sự thống trị toàn diện và tuyệt đối của giai cấp mới nói chung và giữa các thành viên của giai cấp ấy với nhau nói riêng.

3.
Những người không nắm được sự phát triển một cách biện chứng đó của phong trào cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cái gọi là những vụ án Moskva và tại sao những cuộc khủng hoảng về đạo đức do sự phản bội của những kẻ mới hôm qua còn được coi là thánh sống lại không gợi lên trong tâm trí những người cộng sản sự chuyển biến mang tính quyết định mà một người bình thường hay một thành viên của những phong trào khác sẽ nhận ra ngay.
Khrushchev từng khẳng định rằng tra tấn là biện pháp chủ yếu để buộc các nạn nhân các vụ thanh trừng của Stalin phải thú nhận tội lỗi, tự vu khống mình. Ông ta không nhắc đến ma tuý mặc dù có bằng chứng chứng tỏ rằng ma tuý đã được sử dụng. Nhưng sự đàn áp dã man nhất và chất ma tuý có hoạt tính hữu hiệu nhất lại chính là cái chất có sẵn trong lòng các “tội nhân”.
Những tội phạm bình thường, không phải đảng viên thường không rơi vào trạng thái bị thôi miên, không tự vu khống một cách điên rồ và không xin được chết vì “tội lỗi”. Chỉ những người có “tư chất” đặc biệt, những đảng viên cộng sản mới làm như thế.
Đầu tiên họ kinh ngạc vì sự tàn bạo và vô luân của cú ra đòn và những lời buộc tội của thượng cấp, họ còn chưa chịu tin rằng cái thượng cấp ấy lại vô nguyên tắc và vô luân đến như vậy dù rằng trong thâm tâm (và giữa những bạn bè thân hữu) họ đã ngầm lên án nó vì nhiều chuyện rồi. Thế mà bỗng nhiên họ bị bứt ra như người ta bứt mấy cây cỏ dại vậy. Ai đã quyết chuyện đó? Chính giai cấp của họ, lãnh đạo của họ, lãnh tụ của họ đã quyết như thế. Người ta đã nắm cổ và vứt họ ra đống rác. Tệ hơn nữa, họ đã bị coi là những kẻ phản bội dù không làm gì nên tội. Thế mà từ lâu họ đã được giáo dục, từ lâu họ đã quen là một tế bào của đảng, hết lòng vì lí tưởng của nó. Nay, sau khi bị bật khỏi gốc rễ, họ trở thành những người cực kì cô đơn. Họ không biết hoặc không nhớ rằng còn có một thế giới khác, thế giới bên ngoài giáo phái cộng sản, bên ngoài những quan niệm và quan hệ bệnh hoạn của nó, nhưng đã muộn, họ không còn thời gian: người ta không cho họ quay lại nữa, từ lâu, trong tư tưởng, trong tâm lí họ đã là tù binh của giáo lí đó rồi.
Con người không thể đấu tranh thậm chí không thể sống bên ngoài xã hội, bên ngoài cộng đồng. Đấy là dấu hiệu không thể tách rời của con người bao lâu người ấy còn có thể được coi là người, Aristotle đã nhận thấy điều đó, đã giải thích nó và gọi con người là “con vật chính trị”.
Một người đã từng là thành viên của một giáo phái biệt lập, nay bị tách ra khỏi môi trường quen thuộc, bị kết án về mặt đạo đức, lại bị tra tấn một cách tinh vi và dã man, có thể làm được gì? Người đó chỉ còn mỗi một việc là “thú nhận” và bằng cách đó giúp cho giai cấp, giúp cho các “đồng chí”, những người đang cần những lời thú nhận đó để tiếp tục chiến đấu với “kẻ thù của chủ nghĩa xã hội” với “bọn đế quốc” mà thôi. Đấy là hành động “vĩ đại”, hành động “cách mạng” cuối cùng của một thân phận đã bị bỏ lỡ, một thân phận đã tan nát hoàn toàn.
Mọi người cộng sản chân chính đều được dạy và tiếp tục dạy người khác rằng bè phái, tranh chấp nội bộ là tội ác đối với đảng, đối với lí tưởng. Đúng như thế, nếu đảng cộng sản mà chia rẽ thì nó sẽ không thể giành chiến thắng trong cách mạng, không thể giành và giữ được quyền lực. Giữ sự thống nhất bằng mọi giá, đấy chính là cái mệnh lệnh bí hiểm mà đằng sau nó, giống như đằng sau bức tường công sự, ẩn chứa ước mơ của giới chóp bu về một quyền lực không giới hạn, không gì ngăn trở được. Ngay một người đối lập trong đảng, một người đã nghi ngờ hay biết rõ điều đó cũng không thể giải thoát khỏi sự thần bí của yêu cầu thống nhất. Ngoài ra anh ta còn có thể nghĩ rằng các lãnh tụ sẽ đến rồi đi, những kẻ ngu dốt và độc ác, ích kỉ và tham quyền kia cũng sẽ phải đi, nhưng mục đích thì vẫn còn đó, vĩnh viễn. Mục đích là tất cả, chẳng phải ngay từ đầu, từ ngày thành lập đảng đã là thế ư?
Chính Trotsky, một người đối lập kiên trì nhất cũng không vượt qua được cách lí luận như vậy. Một lần, trong cơn phấn khích tự phê bình, Trotsky đã tuyên bố rằng đảng không bao giờ sai vì đảng chính là hiện thân của nhu cầu lịch sử, nhu cầu xây dựng xã hội phi giai cấp. Còn khi đã lưu vong, để lí giải sự vô luân không thể tưởng tượng được của các vụ án ở Moskva, ông đã dựa vào các vụ tương tự trong lịch sử: xảy ra trước khi Thiên chúa giáo giành thắng lợi ở Rome, trong thời Phục hưng, trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản; tất cả đều kèm theo những vụ hành quyết vô luân, vu khống và lừa dối đã là hiện tượng phổ biến và nhiều tội ác khác. Giai đoạn quá độ sang chủ nghĩa xã hội cũng không thể tránh được những hiện tượng như thế, đấy chính là tàn dư của xã hội có giai cấp, Trotsky đã kết luận như vậy đấy. Ông ta đã chẳng lí giải được gì, nhưng bằng cách đó ông đã tự an ủi: ông đã không phản bội “chuyên chính vô sản”, không phản bội chính quyền Xô Viết, “hình thức quyền lực duy nhất trong giai đoạn quá độ sang xã hội phi giai cấp”. Nhưng nếu Trotsky đi sâu vào vấn đề thêm một chút nữa thì có lẽ ông đã hiểu rằng chủ nghĩa cộng sản cũng như thời Phục hưng và nói chung trong lịch sử, khi một giai cấp hữu sản nào đó đang dọn đường cho mình thì khó khăn càng lớn, bức tranh về một thế giới ngày mai mà nó vẽ ra cho mình và cho những người khác càng “lí tưởng”, ước vọng của những người chiến đấu cho thế giới ấy càng sâu sắc và càng cao thượng thì đức hạnh càng ít có giá trị.
Tương tự như vậy, những người không hiểu các thay đổi xã hội to lớn đang diễn ra sau khi cộng sản chiến thắng đã đánh giá sai những cuộc khủng hoảng về đạo đức trong hàng ngũ của họ. Thí dụ người ta đã đánh giá quá cao cuộc công kích của những cộng sự của Stalin vào phong cách làm việc của ông ta được gọi là quá trình phi Stalin hoá.
Các cuộc khủng hoảng về đạo đức, lớn có, nhỏ có, là một phần không thể thiếu được của tất cả các chế độ chuyên chế vì những kẻ bảo vệ các chính thể ấy đã quen cho rằng đồng phục tư tưởng chính là lòng yêu nước, là trách nhiệm công dân cao cả nhất và họ cảm thấy đau khổ trước mỗi khúc quanh, trước mỗi thay đổi nhất định phải xảy ra. Các chế độ toàn trị lại càng không thể tránh được các cuộc khủng hoảng như thế.
Đồng thời cộng sản lại biết rõ bằng bản năng rằng cứ sau mỗi khúc quanh như thế quyền lực toàn trị của giai cấp họ không những không giảm mà còn tăng thêm, đấy chính là con đường phát triển tự nhiên của họ, đức hạnh và bao điều khác không có vai trò gì, thậm chí lại còn có hại. Họ nhanh chóng nhận thức được điều đó qua thực tiễn. Vì vậy mà những cuộc khủng hoảng về đạo đức đó dù có sâu sắc đến đâu cũng chỉ là hiện tượng tạm thời. Thực ra khi toàn thể trái tim và khối óc đã dành cho các mục đích thực tế, còn các cuộc thảo luận về lí tưởng chỉ là bức màn che giả tạo, thì phương tiện nào mà chả tốt.

4.
Chủ nghĩa cộng sản còn giữ được đức hạnh cho đến khi các lãnh tụ của nó bắt đầu thanh toán những người muốn lời nói đi đôi với việc làm ngay trong hàng ngũ của mình. Nhưng việc mất giá về đạo đức đó trong mắt người ngoài không có nghĩa là cộng sản bắt đầu suy yếu. Cho đến nay thì ngược lại. Tất cả các vụ thanh trừng, kể cả những vụ án ở Moskva, không những không làm suy yếu mà ngược lại còn tăng cường sức mạnh của hệ thống nói chung và Stalin nói riêng. Tất nhiên một số tầng lớp, đặc biệt là giới trí thức trong đó có André Gide, đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản vì ngờ rằng trong tình hình hiện nay thì đấy không phải là hiện thân của lí tưởng mà họ hằng mơ ước. Nhưng chính cái chủ nghĩa cộng sản mà ta đang thấy đây không những không yếu đi: giai cấp mới đã cứng cáp, đủ sức lực và sau khi giải phóng khỏi những trở ngại về đạo đức thì đang dìm chính những chiến sĩ cộng sản chân chính trong biển máu. Mất giá về đạo đức trong mắt người khác, chủ nghĩa cộng sản trên thực tế đã tăng cường được quyền lực đối với xã hội và củng cố được địa vị trong mắt giai cấp mình.
Chủ nghĩa cộng sản hiện thời chỉ có thể bị mất giá về mặt đạo đức trong mắt chính giai cấp của mình khi bên cạnh việc thanh toán lẫn nhau của các lãnh tụ còn phải kèm theo các điều kiện khác nữa. Đấy là khi cách mạng không chỉ “ăn thịt những đứa con của mình” mà còn có thể nói tự ăn thịt mình nữa. Đấy là khi chính giai cấp cầm quyền nhận ra rằng mục đích của nó là không thực tế, là không tưởng, không thể thực hiện được. Đấy là khi những bộ óc thông thái nhất của nó nhận thức được rằng đây là giai cấp bóc lột, chính quyền của nó là chính quyền bất công. Đấy là khi giai cấp đó hiểu rằng việc tiêu diệt nhà nước cũng như xây dựng xã hội cộng sản, nơi mọi người làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu là không thực tế trong một tương lai có thể nhìn thấy được. Khi đó họ sẽ hiểu rằng phương tiện mà giai cấp đã và đang sử dụng, trên lời nói là cho mục đích cao cả còn trong thực tế là để củng cố quyền lực của mình đã không còn ý nghĩa nữa, khi đó họ sẽ hiểu tính phi nhân và không phù hợp của những phương tiện đó. Điều đó có nghĩa là trong giai cấp cầm quyền đã có dao động và chia rẽ, quá trình này sẽ không thể đảo ngược được. Nói một cách khác, cuộc đấu tranh cho sự sống còn của chính nó sẽ buộc giai cấp cầm quyền nói chung và các phe nhóm trong lòng nó nói riêng từ bỏ các phương tiện cũ cũng như từ bỏ chính mục đích, cái mục đích không thực tế và thiếu tương lai.
Hi vọng sự xuất hiện một hoàn cảnh như thế chỉ có tính chất lí thuyết, chưa có nước cộng sản nào gợi ý cho ta thấy rằng hi vọng đó sẽ được hiện thực hoá trong một tương lai gần, Liên Xô sau Stalin lại càng không. Giai cấp cầm quyền ở đó vẫn là một lực lượng cố kết, còn việc lên án các biện pháp của Stalin lại được tiến hành nhằm bảo vệ chính giai cấp ấy khỏi những hành động chuyên quyền của nền độc tài cá nhân. Tại đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchev đã biện hộ cho cuộc “khủng bố cần thiết” chống kẻ thù và cho rằng nó khác xa với sự chuyên quyền của Stalin trong quan hệ với “các đồng chí tốt”. Ông ta không lên án các biện pháp như chúng vốn là mà chỉ kết tội cách áp dụng có phần làm cho giới cầm quyền lo ngại. Những thay đổi nhãn tiền sau cái chết của Stalin diễn ra trong nội bộ giai cấp cầm quyền lúc này đã đủ mạnh, đủ sức ngăn chặn việc thiết lập quyền lực tuyệt đối của lãnh tụ và bộ máy cảnh sát. Còn chính giai cấp và các biện pháp thì vẫn chưa có thay đổi đáng kẻ, các vết rạn nứt và suy thoái đạo đức cũng chưa thấy rõ. Nhưng những dấu hiệu của sự rạn nứt thì đã có, đấy là cuộc khủng hoảng đạo đức như đã nói đến bên trên. Quá trình phân hoá về mặt đạo đức chỉ mới bắt đầu. Các điều kiện cho quá trình ấy đã bắt đầu hiện ra ngày càng rõ nét hơn.
Khi nhóm chóp bu tự cho mình đặc quyền chỉ trích việc Stalin o ép những người cộng sản thì câu chuyện đó nhất định sẽ tìm được tiếng vọng trong lòng những người còn bị o ép gấp trăm, gấp ngàn lần hơn thế. Cách mạng tư sản Pháp khi đã chán ngấy chiến tranh và chế độ chuyên chế, cũng đã nổi dậy chống lại hoàng đế Napoleon của mình. Nhân dân Pháp cuối cùng đã rút ra những bài học bổ ích. Các biện pháp của Stalin nhân danh xã hội tươi sáng tương lai không thể nào trở lại được nữa. Nhưng điều đó không có nghĩa là nhóm chóp bu hiện nay, dù không thể sử dụng bừa bãi mọi biện pháp được nữa, về nguyên tắc sẽ đoạn tuyệt với các biện pháp ấy. Điều đó cũng không có nghĩa rằng Liên Xô sẽ bất ngờ biến thành nhà nước dân chủ pháp trị trong một tương lai gần.
Nhưng dù sao rõ ràng là đã có một số thay đổi.
Trong tương lai giai cấp cầm quyền không thể biện hộ, dù trong nội bộ, việc sử dụng bừa bãi các biện pháp nhân danh mục đích “lí tưởng”. Nó vẫn sẽ còn ba hoa về chủ nghĩa cộng sản như là mục đích cuối cùng; nếu không thế thì sự độc quyền cũng sẽ tiêu ma. Nhưng đấy có lẽ chỉ là thói quen sử dụng bừa bãi các phương tiện còn sót lại từ quá khứ mà thôi. Không phải lúc nào nó cũng dám liều như trước nữa. Một sức mạnh lớn hơn, đấy là nỗi sợ trước dư luận quốc tế, sợ làm ảnh hưởng đến hình ảnh của mình, quyền lực tuyệt đối của mình đã làm cho nó dao động, chùn tay. Cảm thấy mình đủ mạnh để có thể giỡ bỏ hiện tượng sùng bái cá nhân Stalin, của người sáng lập hệ thống, giai cấp mới đã đánh một đòn chí mạng vào ngay lí tưởng của mình. Ngay khi đạt đến đỉnh cao của quyền lực, giai cấp mới bắt đầu tránh xa cái hệ tư tưởng, cái lí thuyết giáo điều đã góp phần dẫn nó đến quyền lực. Đã xuất hiện những vết rạn nứt, đã có dấu hiện rã đám. Trên bề mặt thì dường như vẫn phẳng lặng, vẫn yên tĩnh, nhưng ở trong lòng, ở ngay trong hàng ngũ của nó bắt đầu xuất hiện những suy nghĩ mới, các tư tưởng mới đang cày xới nền đất, đang tung ra những hạt giống cho những trận cuồng phong trong tương lai.
Chính vì vậy mà giai cấp mới sau khi đã từ bỏ các biện pháp của Stalin cũng sẽ không thể giữ mãi được giáo điều Stalin nữa. Các biện pháp đó chỉ là sự thể hiện giao lí đó trên thực tế.
Không phải là lương tâm, cũng không phải là lòng nhân đạo đã buộc các chiến hữu của Stalin công nhận tác hại của những biện pháp mà ông ta đã sử dụng. Chính quyền lợi của giai cấp cầm quyền đã buộc họ, dù đã hơi muộn, dù sau khi người thày của họ đã qua đời, phải quay lại với lương tri và nhận ra rằng họ có thể xử sự một cách nhân đạo hơn.
Từ bỏ những biện pháp man rợ cực đoan, nhóm chóp bu dù không muốn cũng đã gieo vào lòng giai cấp mình hạt giống nghi ngờ chính những mục tiêu của nó. Trước đây mục đích đã là tấm màn che đậy cho những phương tiện vô luân. Từ bỏ nguyên tắc “mục đích biện minh cho phương tiện” tạo ra sự ngờ vực vào ngay chính mục đích. Nếu đã chứng minh rằng các phương tiện phải đưa đến mục đích đó lại là những phương tiện giả, thì mục đích cũng là giả nốt. Vì trong chính trị chỉ có phương tiện là thật còn mục đích, trên lời nói, thì lúc nào cũng là tốt đẹp cả. “Con đường đưa đến địa ngục được xây bằng các ý tưởng tốt” là như thế đấy.

5.
Lịch sử chưa hề thấy mục đích lí tưởng nào được xây dựng bởi những phương tiện vô nhân đạo, phản nhân tính; cũng như nó chưa từng thấy một xã hội tự do nào lại được xây dựng bởi những kẻ nô lệ. Không gì có thể phản ánh rõ thực chất của mục đích bằng chính các phương tiện để đạt mục đích ấy.
Nếu mục đích có trách nhiệm biện minh cho các phương tiện phản nhân tính thì phải nói mục đích có vấn đề. Trong thực tế thì chính là phương tiện, sự hoàn thiện liên tục và nhân đạo hoá các phương tiện mới có thể biện minh cho mục đích, biện minh cho những cố gắng và hi sinh cho thắng lợi của nó.
Chủ nghĩa cộng sản hiện đại chưa bắt đầu quá trình này. Nó mới chỉ tạm dừng chân, lòng tràn đầy niềm tin vào sức mạnh của mình và đang suy nghĩ về các phương tiện đã được lựa chọn.
Tất cả các chế độ dân chủ trong lịch sử (tương đối dân chủ thôi, phù hợp với hoàn cảnh) không phải được xây dựng trên ước vọng đạt đến mục đích lí tưởng mà trên những cố gắng tuy nhỏ nhưng thấy được từng ngày với việc sử dụng các phương tiện phù hợp. Bằng cách đó các chế độ ấy đã và đang đưa, với ít nhiều tính tự phát, nhân dân họ đến gần những mục đích lớn lao hơn. Trong khi đó các chế độ chuyên chế thường tự biện hộ bằng những mục đích lí tưởng.
Không chế độ chuyên chế nào có thể dẫn người ta đến những mục đích cao thượng mà nó từng tuyên bố.
Chủ nghĩa cộng sản đương thời, bằng các biện pháp cách mạng, đã đập tan một hình thái xã hội này và bằng các biện pháp độc tài đã tạo ra một hình thái xã hội khác. Trong trường hợp thứ nhất họ được cổ võ bởi ước mơ thánh thiện nhất, vĩ đại nhất, ước mơ tự ngàn đời của con người về bình đẳng và bác ái, sau đó chính những ước mơ này đã là tấm màn che địa vị thống trị được áp đặt và thực thi bằng mọi phương tiện, kể cả những phương tiện xấu xa, bỉ ổi nhất.
Giống như nhân vật Sigaliov trong tác phẩm Lũ người quỉ ám của Dostoevski: “Hắn xếp đặt mọi chuyện đâu ra đấy trong một cuốn sổ ghi chú. Hắn vạch ra một mạng lưới do thám thật hay. Trong hệ thống đó, mỗi người của phong trào sẽ dò xét mọi người khác và báo cáo về họ. Mỗi người đều thuộc về tất cả và tất cả đều thuộc về mọi người. Tất cả đều là nô lệ và bình đẳng trong sự nô lệ. Trong những trường hợp hãn hữu mới cần đến vu khống và xử tử, còn chủ yếu là bình đẳng… Đám nô lệ phải được bình đẳng: không có sự chuyên chế thì chẳng bao giờ có tự do hay bình đẳng…” [1]
Như vậy là khi dùng mục đích để biện minh cho phương tiện thì mục đích ngày càng trở nên xa vời và phi thực tế. Còn phương tiện thì ngày càng khủng khiếp hơn và không thể nào chấp nhận được.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét