Đặc điểm của cách mạng
1.
Những ai đã từng biết, dù không nhiều, lịch sử của các nước đã từng diễn ra các cuộc cách mạng cộng sản đều thấy rằng ở đấy từng tồn tại nhiều đảng phái không hài lòng với hiện tình của đất nước. Nổi bật nhất là nước Nga, nơi đảng thực hiện thành công công cuộc cách mạng không phải là tổ chức cách mạng duy nhất vào thời điểm đó.
Đảng cộng sản không chỉ có thái độ cách mạng đối với hiện tình đất nước mà còn là lực lượng tỏ thái độ kiên quyết nhất, nhất quán nhất của tư tưởng cải tạo xã hội theo hướng công nghiệp hoá. Trên thực tế, đấy chính là sự tiêu diệt một cách triệt để quan hệ sở hữu cũ - lực cản trên đường dẫn đến mục đích đã được lựa chọn. Không có đảng nào có thái độ quyết liệt như vậy đối với quan hệ sở hữu, không có đảng nào có xu hướng công nghiệp hoá đến như vậy.
Nhưng ta vẫn chưa thể hiểu tại sao các đảng đó phải ghi vào cương lĩnh của mình là các đảng xã hội chủ nghĩa.Trong điều kiện lạc hậu của nước Nga Sa Hoàng, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa không những không có khả năng tiến hành công nghiệp hoá mà còn là lực cản đối với quá trình công nghiệp hoá. Vì quan hệ sở hữu này đang nằm trong một nước với những di sản năng nề của chủ nghĩa phong kiến và trong một thế giới, nơi các nước tư bản chủ nghĩa không muốn nhả khu vực nguyên liệu rộng lớn và một thị trường đầy tiềm năng khỏi tay mình.
Phù hợp với quá khứ của mình, nước Nga Sa Hoàng không bắt kịp cuộc cách mạng công nghiệp. Nga là nước duy nhất ở châu Âu không biết đến phong trào Cải cách tôn giáo và Phục hưng, không có các thành phố châu Âu trung cổ. Và cái đất nước lạc hậu ấy, cái đất nước nửa nông nô với chính quyền độc tài chuyên chế và chế độ tập trung quan liêu ấy đã bị ném vào vòng xoáy của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới, vào mạng lưới của các trung tâm tài chính quốc tế.
Lenin trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản đã đưa ra các số liệu chứng tỏ rằng ba phần tư tài sản của các ngân hàng lớn nhất tại Nga là do tư bản nước ngoài kiểm soát.
Trotsky trong tác phẩm Lịch sử cách mạng Nga nhấn mạnh rằng người nước ngoài nắm giữ 40% cổ phiếu của nền công nghiệp Nga, mà trong các lĩnh vực quan trọng thì tỉ lệ này còn cao hơn. Rõ ràng là người nước ngoài cũng nắm giữ phần cốt yếu trong các ngành kinh tế chính của Nam Tư nữa. Bản thân những thí dụ này không chứng tỏ được điều gì nếu không có sự kiện là trong khi tư bản nước ngoài buộc các nước này đóng vai trò nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ mạt lại làm mọi cách nhằm ngăn chặn các nước đó phát triển. Trên thực tế người ta đã tiến hành chính sách giữ cho các nước đó ở mãi trong tình trạng chậm tiến, thậm chí làm thoái hoá cả một dân tộc.
Như vậy là một đảng nào đó nhận trách nhiệm tiến hành cách mạng, thì về mặt đối nội nó phải tiến hành chính sách chống tư sản, và về đối ngoại phải chống đế quốc.
Tư sản dân tộc còn rất non yếu, chỉ đóng vai trò tay sai, đóng vai kẻ thừa hành chính sách của tư bản nước ngoài mà thôi. Gắn bó máu thịt với cuộc cách mạng công nghiệp hoá không phải là giai cấp tư sản mà chính là giai cấp vô sản, giai cấp xuất hiện do việc bần cùng hoá ngày càng nhiều tầng lớp nông dân. Nếu việc tiêu diệt sự bóc lột dã man là vấn đề sống còn của những người đã trở thành vô sản thì công nghiệp hoá lại là vấn đề sống còn của những người nông dân đang sắp trở thành vô sản. Để có thể đồng thời thể hiện được quyền lợi của cả hai nhóm này, phong trào phải đưa ra các tư tưởng, khẩu hiệu và lời hứa có xu hướng chống tư sản, nghĩa là xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, đảng cách mạng không thể tiến hành cách mạng công nghiệp hoá mà không tập trung vào tay mình toàn bộ nguồn nội lực, mà trước hết là những nguồn lực thuộc quyền sở hữu của tư bản địa phương đang bị quần chúng căm ghét vì bị bóc lột thậm tệ và bị đối xử một cách vô nhân đạo. Đảng cách mạng cũng phải có thái độ tương tự đối với tư bản ngoại quốc.
Các đảng phái khác không có và cũng không thể có cương lĩnh tương tự như vậy. Tất cả các đảng phái này đều bị quá khứ đè nặng, đều muốn giữ lại các quan hệ đã trở nên trì trệ hoặc trong trường hợp tốt nhất thì cũng chỉ muốn tiến lên một cách chậm chạp, một cách hoà bình mà thôi. Các đảng có xu hướng chống tư bản, thí dụ những người xã hội-cách mạng Nga kêu gọi quay trở lại với đời sống nông nghiệp bán khai. Còn cương lĩnh của những người xã hội chủ nghĩa, thí dụ như những người menshevik Nga, cuối cùng cũng chỉ là loại bỏ bằng vũ lực các cản trở cho sự phát triển tư bản chủ nghĩa vì họ cho rằng chỉ có chủ nghĩa tư bản phát triển mới tạo tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng ở đây vấn đề lại hoàn toàn khác: đối với các nước này việc quay trở lại hay phát triển tư bản chủ nghĩa đều không thực tế, đều không thể thực hiện được.
Chỉ có đảng cổ động cho cuộc cách mạng chống tư bản và tiến hành công nghiệp hoá nhanh chóng đất nước mới có cơ may giành được thành công. Đấy rõ ràng phải là đảng hành động theo các nguyên lí của chủ nghĩa xã hội. Trong những điều kiện có sẵn như thế, đảng này, về mặt tư tưởng phải dựa vào học thuyết, một mặt, nhấn mạnh rằng công nghiệp hoá là tiến bộ và không thể đảo ngược được và mặt khác nhấn mạnh rằng cách mạng nhất định sẽ nổ ra. Lí thuyết ấy đã có sẵn rồi, chỉ cần cải biến nó cho phù hợp là xong. Đấy là chủ nghĩa Marx, khía cạnh cách mạng của chủ nghĩa Marx. Dựa vào chủ nghĩa Marx cách mạng cũng như phong trào xã hội chủ nghĩa châu Âu đối với đảng ấy là điều tự nhiên cũng như sau này, trong quá trình phát triển của cách mạng và sự biến đổi về cơ cấu trong các nước tư bản phát triển, nó nhất định sẽ li khai với các đảng xã hội chủ nghĩa châu Âu vì các đảng này đã chuyển sang con đường cải cách. Để tiến hành cách mạng và công nghiệp hoá một cách nhanh chóng phải cần rất nhiều hi sinh, cần phải có những cuộc thanh trừng dã man, lí trí không thể nào tưởng tượng nổi, để buộc người ta tin vào lời hứa “xây dựng thiên đàng trên trái đất”. Tiến theo nguyên tắc chung đó, theo con đường có ít chống đối nhất đó, rời bỏ các quan điểm mác-xít và xã hội chủ nghĩa, những người thực thi cách mạng và công nghiệp hoá vì mục đích thực tiễn đã quên các nguyên lí đó, đã thay chúng bằng những điều ngược lại, nhưng cũng không chối bỏ hoàn toàn được chúng.
Chiến thắng của những người cộng sản (bolshevik) Nga không có liên quan gì đến tính khoa học của các quan điểm của họ. Nếu tính khoa học là sự nhận biết xu hướng phát triển của cách mạng và công nghiệp hoá thì phải nhận rằng đảng bolsevik đúng là một đảng có quan điểm khoa học. Nhưng như thế thì cũng phải nói rằng bất cứ đảng nào nắm được xu thế phát triển cũng đều là đảng có quan điểm khoa học cả.
Chủ nghĩa tư bản, các quan hệ tư bản chủ nghĩa là những hiện tượng tất yếu, phù hợp với mức độ phát triển của xã hội, cũng như bất kì hình thức nào khác mà nhờ đó xã hội thể hiện được các nhu cầu thường trực cũng như khát vọng mở rộng và hoàn thiện nền sản xuất của mình. Tại nước Nga, chủ nghĩa tư bản đã cản trở qui luật này, trong khi ở nước Anh nửa đầu thế kỉ XIX nó chính là lực lượng bảo đảm cho qui luật đó vận hành. Ở Anh muốn đưa nền sản xuất lên một tầng cao mới giai cấp tư sản bắt buộc phải thủ tiêu tầng lớp nông dân, nhưng ở Nga thì chính các chủ doanh nghiệp (nghĩa là các nhà tư sản) lại là nạn nhân. Qui luật vẫn bảo toàn dù hình thức thể hiện có khác và với những diễn viên khác.
Chủ nghĩa xã hội, trong hệ tư tưởng là các khẩu hiệu, những hứa hẹn và những lời có cánh, còn trong thực tế là một hình thức quyền lực và sở hữu đặc thù, trong những hoàn cảnh cụ thể, ở mức độ phát triển sản xuất cụ thể, tự đứng ra nhận trách nhiệm tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp hoá, nhận trách nhiệm cải tiến và mở rộng sản xuất cũng là một sự kiện tất yếu.
2.
Tất cả các cuộc cách mạng trước đây xảy ra là để phá bỏ hệ thống chính trị cản trở sự phát triển của các quan hệ sản xuất đã trở thành chủ đạo trong xã hội. Các cuộc cách mạng đó không thực hiện điều gì khác ngoài việc phá vỡ các cơ cấu chính trị lỗi thời và dọn đường cho các lực lượng và quan hệ sản xuất đã phát triển đầy đủ trong lòng xã hội cũ. Trong những trường hợp khi các nhà cách mạng (những người Jacobin đứng đầu là Robespierre và Saint-Just trong cách mạng Pháp) định dùng các phương tiện bạo lực để tạo lập những quan hệ kinh tế - xã hội mới, thì hành động của họ không tránh khỏi thất bại và chính họ cũng sẽ nhanh chóng bị loại bỏ.
Trong tất cả các cuộc cách mạng trước, sự đàn áp và vũ lực chỉ là hậu quả, là phương tiện trong tay của các lực lượng và quan hệ kinh tế - xã hội đã nắm quyền chủ đạo; và nếu trong cao trào của cách mạng họ có sử dụng vũ lực một cách thái quá thì cuối cùng họ cũng buộc phải trở về với thực tế và khuôn khổ cho phép. Đàn áp và khủng bố dù có vai trò tất yếu thì cũng chỉ là hiện thượng có tính nhất thời.
Theo những điều đã trình bày ở trên, cũng như do những hoàn cảnh riêng biệt đặc thù, tất cả các cuộc cách mạng, dù được tiến hành từ “dưới lên” như ở Pháp hay từ trên xuống như dưới trào Bismark ở Đức, thì cuối cùng các cuộc cách mạng ấy nhất định phải dẫn tới dân chủ về chính trị. Dễ hiểu là vì sao: “công việc chủ yếu” của các cuộc cách mạng đó là phá vỡ hệ thống chính trị chuyên chế lỗi thời, nghĩa là tạo dựng lên các quan hệ chính trị phù hợp các nhu cầu kinh tế và các nhu cầu khác vốn đã chín muồi, phù hợp với nền sản xuất hàng hoá tự do.
Các cuộc cách mạng cộng sản hiện đại được tiến hành trong một hoàn cảnh khác hẳn.
Chúng được thực hiện không phải như một cuộc chuyển tiếp sang – ta gọi là quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa – các quan hệ đã chín muồi, còn quan hệ tư bản thì đã “chín nẫu” rồi, mà ngược lại, được tiến hành ngay khi chủ nghĩa tư bản còn chưa phát triển, chưa sẵn sàng cho công cuộc công nghiệp hoá toàn bộ đất nước.
Tại Pháp, chủ nghĩa tư bản đã nắm thế thượng phong trong kinh tế, trong các quan hệ xã hội và ngay cả trong nhận thức của người dân từ rất lâu trước khi cách mạng nổ ra. Không thể nói như thế về sự chín muồi của chủ nghĩa xã hội ở Nga, ở Trung Quốc hay Nam Tư được.
Ngay các lãnh tụ cách mạng cũng nhận thức được điều đó. Ngày 7 tháng 3 năm 1918, giữa cao trào cách mạng, Lenin đã nhắc đến chuyện này tại đại hội bất thường lần thứ VII của Đảng cộng sản Nga như sau:
“… Một trong những khác biệt chủ yếu của cách mạng tư sản và cách mạng xã hội chủ nghĩa là đối với cách mạng tư sản vốn thoát thai từ chủ nghĩa phong kiến, trong lòng của chế độ cũ đã hình thành dần dần các tổ chức, các tổ chức đó biến đổi một cách từ từ tất cả các mặt của chế độ phong kiến… Trong khi thực hiện nhiệm vụ này, mọi cuộc cách mạng tư sản chỉ làm mỗi một việc: đẩy nhanh sự phát triển của chủ nghĩa tư sản.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một vị thế hoàn toàn khác. Do những dích dắc của lịch sử, đất nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa càng lạc hậu thì giai đoạn chuyển tiếp từ quan hệ tư bản chủ nghĩa sang quan hệ xã hội chủ nghĩa sẽ càng khó khăn…
Sự khác nhau giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng tư sản là trong trường hợp sau đã có sẵn các hình thức quan hệ tư bản chủ nghĩa, còn đối với chính quyền Xô Viết, chính quyền vô sản thì các quan hệ này chưa có sẵn, nếu không kể đến các hình thức quan hệ tư bản đã phát triển, thực ra các quan hệ này mới bao trùm phần chóp bu không đáng kể của nền công nghiệp, nó hoàn toàn chưa đụng chạm gì đến ngành nông nghiệp cả”.
Tôi trích dẫn Lenin, nhưng tôi cũng có thể trích dẫn bất kì lãnh tụ cách mạng cộng sản nào, cũng như có thể trích dẫn rất nhiều học giả khẳng định một chuyện hiển nhiên: chưa hề có “các quan hệ” cho chế độ mới. Chính quyền Xô Viết phải xây dựng các quan hệ đó.
Nói chung những người cộng sản giành được chính quyền ở các nước phải mất nhiều công sức thuyết phục, thảo luận và cố gắng “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, xây dựng các quan hệ mới mà ta tạm gọi là xã hội chủ nghĩa để làm gì nếu các quan hệ này đã chín muồi trước khi cách mạng cộng sản giành được thắng lợi?
Phân tích như thế, chúng ta đi đến kết luận, sau này mới thấy là có vẻ vô lí: nếu các điều kiện cho xã hội mới chưa chín muồi thì làm cách mạng làm gì? Làm sao cuộc cách mạng ấy lại có thể xảy ra được? Làm sao nó lại có thể đứng vững được mặc dù các quan hệ xã hội mới chưa hề tồn tại trong lòng xã hội cũ?
Cho đến lúc đó chưa có một cuộc cách mạng nào, chưa có đảng nào đặt ra cho mình nhiệm vụ xây dựng các quan hệ xã hội, nghĩa là xây dựng một xã hội hoàn toàn mới. Nhưng đây lại chính là tiền đề của các cuộc cách mạng cộng sản.
Về các qui luật chi phối sự phát triển của xã hội, các lãnh tụ cộng sản cũng chẳng biết nhiều hơn những người khác, nhưng lại phát hiện ra rằng tại đất nước mà họ có thể tiến hành cách mạng cũng có thể tiến hành công nghiệp hoá, nghĩa là có thể thực hiện công cuộc cải tạo xã hội vì nó phù hợp với những giả thuyết của họ. Cách mạng đã thành công trong những “điều kiện chưa chín muồi” là một minh chứng. Xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cũng vậy mà thôi. Nếu không cho rằng họ có ảo tưởng là nắm được các qui luật vận động của xã hội thì ta thấy rõ ràng là họ đã thiết kế ra một xã hội mới và bắt đầu công cuộc xây dựng, dù có khi thay đổi, có khi bỏ bớt một số chi tiết thì nói chung họ vẫn tuân thủ thiết kế chính.
Công nghiệp hoá là bắt buộc, là qui luật của xã hội, kết hợp với phương pháp tiến hành, phương pháp cộng sản chủ nghĩa.
Nhưng cả hai điều đó, cùng đồng thời phải phát triển, lại không thể thực hiện trong ngày một ngày hai được, lại cần một khoảng thời gian dài. Sau cách mạng phải tiến hành công nghiệp hoá. Ở phương Tây thì đấy là các lực lượng kinh tế, nằm ngoài chính trị, đấy là chủ nghĩa tư bản. Các nước cộng sản không có các lực lượng như thế, vai trò ấy được đặt lên vai các cơ quan cách mạng, lên vai chính quyền mới, lên vai đảng cách mạng.
Trong các cuộc cách mạng trước đây bạo lực cách mạng biến thành trở lực của phát triển kinh tế ngay sau khi trật tự cũ đã bị đập tan. Trong cách mạng cộng sản bạo lực là điều kiện cần thiết cho phát triển, thậm chí cho sự tiến bộ của cách mạng. Các nhà cách mạng trước đây coi bạo lực là cái ác, là vũ khí cần thiết của cách mạng. Nhưng người cộng sản lại nâng nó lên thành bái vật và mục đích cuối cùng. Đối với xã hội cũ thì các giai cấp và lực lượng cấu thành đã tồn tại từ trước khi nổ ra cách mạng. Cách mạng cộng sản phải tạo ra cả xã hội mới cũng như lực lượng cấu thành xã hội ấy.
Ở phương Tây, sau những “lầm lẫn” và “lệch lạc” cách mạng nhất định sẽ dẫn đến dân chủ, nhưng ở đây, tại phương Đông, cách mạng sẽ kết thúc bằng chế độ độc tài. Các biện pháp đàn áp, khủng bố, các nhà cách mạng và các đảng cách mạng trở thành thừa, thành vật cản đối với phương Tây sau cách mạng. Phương Đông có quan điểm hoàn toàn ngược lại.
Nếu ở phương Tây nền độc tài đi kèm theo cách mạng dù sao cũng chỉ là hiện tượng tạm thời, thì ở phương Đông nó phải kéo dài “tới muôn đời sau”. Điều đó không chỉ bởi vì không thể tiến hành công nghiệp hoá trong một thời gian ngắn mà như ta sẽ thấy trong phần trình bày sau, nó còn kéo dài ngay cả sau khi công nghiệp hoá đã thành công.
3.
Giữa cách mạng cộng sản và các cuộc cách mạng đã diễn ra trong quá khứ, ngoài những điều đã trình bày, còn có một loạt khác biệt quan trọng nữa như sau.
Các cuộc cách mạng trong quá khứ, mặc dù đã chín muồi trong kinh tế và trong nhận thức xã hội, đã không thể nào xảy ra được nếu không có sự trùng hợp nhất định của hoàn cảnh. Khoa học về căn bản đã xác định được các điều kiện cần cho sự bùng nổ và chiến thắng của cách mạng. Phải nhấn mạnh rằng bên cạnh những điều kiện chung, mỗi cuộc cách mạng còn có những đặc điểm riêng, nếu không tính đến và không nắm được các điều kiện đó thì cách mạng không thể xảy ra và không thể thành công được.
Đối với các cuộc cách mạng xảy ra trong quá khứ, chí ít là đối với các cuộc cách mạng lớn nhất, chiến tranh, hay nói đúng hơn sự phá vỡ quốc gia, không phải là điều kiện kích hoạt bắt buộc. Đối với cách mạng cộng sản thì đây là điều kiện căn bản, đảm bảo cho chiến thắng. Kết luận này đúng với cả trường hợp Trung Quốc: cách mạng ở đó đã bắt đầu trước cuộc xâm lược của Nhật, nhưng đã kéo dài cả thập kỉ và chỉ thu được thắng lợi khi chiến tranh kết thúc. Cách mạng năm 1936 ở Tây Ban Nha có thể đã trở thành một ngoại lệ, nhưng cuộc cách mạng này đã không phát triển thành cách mạng cộng sản và không thu được thắng lợi chung cuộc.
Cách mạng cộng sản cần chiến tranh, cần phá huỷ bộ máy nhà nước cũ là vì, như đã nhấn mạnh ở trên, sự chưa chín muồi về kinh tế và xã hội. Để một nhóm nhỏ, dù có được tổ chức tốt và có kỉ luật đi nữa, có thể nắm được chính quyền thì cần phải phá bỏ toàn bộ hệ thống, đặc biệt là bộ máy nhà nước cũ, cần phải tiến hành chiến tranh. Xin nói thêm: chiến tranh với cơ cấu quyền lực cũ và với hệ thống quản lí nhà nước cũ, vốn đã trở thành người thua cuộc.
Trong Cách mạng tháng Mười, Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga chỉ có khoảng 200 ngàn thành viên. Năm 1941 Đảng cộng sản Nam Tư có khoảng 10 ngàn đảng viên. Rõ ràng rằng để có thể giành được chính quyền thì bao giờ cũng cần sự ủng hộ tích cực của một bộ phận dân chúng, nhưng trong mọi trường hợp khi một đảng tiến hành cách mạng và giành chính quyền lại có số lượng đảng viên không nhiều thì nó chỉ có thể kì vọng vào những điều may mắn “từ trên trời rơi xuống” mà thôi.
Nói chung một đảng như thế khi chưa nắm được quyền lực thì không bao giờ có thể là đảng có đông đảng viên được.
Phá huỷ hoàn toàn trật tự xã hội cũ và xây dựng một trật tự mới khi các điều kiện về kinh tế và xã hội chưa chín muồi là một nhiệm vụ cực kì khó khăn và có vẻ không thực tế, cho nên đảng đó chỉ có thể lôi kéo được rất ít người, chỉ những người tin tưởng một cách mù quáng vào khả năng biến nó thành hiện thực mới gia nhập đảng mà thôi.
Những hoàn cảnh đặc biệt và một đảng đặc biệt chính là đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng cộng sản.
Mọi cuộc cách mạng, cũng như mọi cuộc chiến tranh, đều đòi hỏi sự tập trung toàn bộ sức mạnh. Theo Matieza, thì cách mạng Pháp là cuộc cách mạng đầu tiên mà “tất cả nguồn lực của nhân dân: con người, lương thực, vật tư được tập trung vào tay chính phủ”. Cách mạng cộng sản, một cuộc cách mạng “chưa chín muồi” còn đòi hỏi sự tập trung hơn thế nữa: trong tay của đảng không chỉ là các giá trị vật chất mà còn cả các giá trị tinh thần, ngay đảng cũng chính trị hoá và được tổ chức một cách tập trung ở mức độ cao nhất. Chỉ có những đảng cộng sản đã cố kết về mặt chính trị và đoàn kết xung quanh trung ương, không có chia rẽ về mặt tư tưởng mới có khả năng tiến hành cách mạng.
Nếu tiền đề chiến thắng của mọi cuộc cách mạng là sự tập trung tất cả lực lượng và phương tiện cùng với một sự thống nhất nhất định về chính trị của đảng cách mạng thì đối với cách mạng cộng sản điều đó còn có ý nghĩa hơn nữa bởi vì ngay từ đầu nó đã loại trừ mọi nhóm hay chính đảng độc lập tham gia như đồng minh của đảng cộng sản, đồng thời nó còn đòi hỏi chính những người cộng sản một sự thống nhất hoàn toàn về chiến lược và sách lược cũng như quan niệm triết học và cả đạo đức nữa. Sự kiện là những người xã hội-cách mạng cánh tả tham gia vào Cách mạng tháng Mười, cũng như những người không đảng phái và các nhóm thuộc các đảng phái khác nhau tham gia vào cách mạng Trung Quốc hay Nam Tư không những không phủ nhận mà còn khẳng định kết luận trên: những nhóm đó chỉ là tay sai của cộng sản và đến một lúc nào đó họ sẽ phải tự giải tán hoặc bị săn đuổi. Những người xã hội-cách mạng đã bị săn đuổi ngay khi có ý định hoạt động độc lập, còn những nhóm không cộng sản ủng hộ cách mạng ở Trung Quốc và Nam Tư thì trong thực tế đã tự ý thôi hoạt động chính trị ngay từ trước rồi.
Các cuộc cách mạng trước đây không phải là “đặc quyền” của một nhóm duy nhất nào. Trong cao trào của cách mạng, các nhóm khác nhau có thể chèn ép hoặc tiêu diệt lẫn nhau nhưng cách mạng không phải là sự nghiệp của một nhóm duy nhất và cũng không kết thúc bằng việc thiết lập quyền thống trị lâu dài của nhóm đó. Những người Jacobin ở Pháp chỉ có thể nắm giữ chế độ chuyên chế trong một thời gian ngắn. Nền chuyên chế của Napoleon, sinh ra từ trong cách mạng, đồng thời cũng là sự cáo chung của cách mạng và báo hiệu giai đoạn nắm quyền của các tập đoàn tư bản lớn. Nếu trong các cuộc cách mạng trước kia một đảng đóng vai trò chủ đạo, các đảng khác vẫn tiếp tục hoạt động, cho dù một số có bị cấm đoán và săn đuổi thì điều đó cũng không thể kéo dài vì không ai có thể tiêu diệt được họ. Điều đó chỉ xảy ra trong các cuộc cách mạng cộng sản hiện đại về sau này mà thôi. Ngay Công xã Paris , những người cộng sản vẫn coi đây là một cuộc diễn tập của họ, thực chất là một cuộc cách mạng đa đảng phái.
Nếu một đảng nào đó trong những giai đoạn nào đó của cách mạng có đóng vai trò chủ đạo hay vai trò đặc biệt đi nữa thì nó cũng không tập trung hoá về tổ chức và tư tưởng như đảng của những người cộng sản. Ngay những người Thanh giáo ở Anh hay những người Jacobin ở Pháp cũng không bắt buộc phải có quan điểm thống nhất về tư tưởng và triết học mặc dù Thanh giáo là một tổ chức tôn giáo. Về mặt tổ chức thì Jacobin chỉ là liên hiệp các câu lạc bộ, đối với Thanh giáo thì ngay một liên hiệp như vậy cũng không tồn tại. Chỉ có các cuộc cách mạng cộng sản thời hiện đại mới làm cho sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức của đảng trở thành qui luật.
Một điều không thể chối cãi được là: trong tất cả các cuộc cách mạng trước đây, sau khi nội chiến và can thiệp từ bên ngoài kết thúc thì các phương pháp cách mạng cũng như các đảng cách mạng đã không còn cần thiết nữa, đảng có thể bị giải tán. Cách mạng cộng sản thì ngược lại, họ tiếp tục sử dụng các hình thức và biện pháp cách mạng, còn đảng cộng sản thì trở nên tập trung hoá hơn bao giờ hết, tư tưởng của đảng trở thành duy nhất đúng.
Lenin đặc biệt nhấn mạnh điều này trong tiến trình cách mạng (Trong Luận cương Hội nghị thứ II Quốc tế cộng sản, phần “Điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản”):
“Trong giai đoạn nội chiến khốc liệt hiện nay đảng cộng sản chỉ có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình nếu được tổ chức một cách tập trung nhất, trong đảng phải có kỉ luật sắt, bên cạnh kỉ luật thời chiến, nếu ban chấp hành trung ương là cơ quan quyền lực có uy tín, được giao quyền lực rộng rãi và nhận được sự tin cậy của các đảng viên”
Stalin còn nói thêm:
“Trong điều kiện cuộc đấu tranh trước khi giành được chính quyền chuyên chính, kỉ luật đảng đã là như thế. Sau khi giành được chính quyền kỉ luật đảng càng phải được nâng cao hơn nữa” [1] .
Tinh thần cảnh giác cách mạng, những đòi hỏi cấp bách về sự thống nhất về mặt tư tưởng, tính đặc thù về chính trị và tư tưởng, chủ nghĩa tập trung, tất cả những điều đó đã không biến mất sau khi giành được chính quyền mà ngược lại ngày càng trở thành gay gắt hơn, trầm trọng hơn.
Trong những cuộc cách mạng trước, giai đoạn áp dụng những biện pháp nghiêm khắc, giai đoạn tập trung quyền lực và độc quyền tư tưởng chỉ giới hạn trong khoảng thời gian xảy ra các sự kiện cách mạng. Đối với cuộc cách mạng cộng sản thì đây chỉ là bước khởi đầu của một nền chuyên chế toàn trị của một nhóm người, của một nền thống trị không có hồi kết.
Bạo lực của các cuộc cách mạng trước, ngay cả trong thời kì gọi là Khủng bố trong Cách mạng Pháp, dù không phải lúc nào cũng công chính, nhưng chỉ nhằm trừ khử những kẻ thù thực sự chứ không phải để loại bỏ những người có thể trở thành kẻ thù. Nếu không kể những cuộc chiến tranh tôn giáo thời Trung cổ, việc tiêu diệt hay săn đuổi những tầng lớp xã hội nhất định chỉ là những hiện tượng cực kì hãn hữu. Những người cộng sản thì khác, nhận thức được rằng cả về lí thuyết và trên thực tế họ xung đột với tất cả các giai cấp và các hệ tư tưởng khác cho nên họ chiến đấu không chỉ chống kẻ thù đã bị lật đổ nhưng vẫn còn sức sống mà họ còn phải chống lại cả những kẻ thù giả định nữa. Tại những nước vùng Ban-tich người ta lập danh sách những người mà họ cho rằng trước đây từng có cảm tình với các đảng phái khác và chỉ trong vài ngày hơn một ngàn người đã bị đàn áp.
Việc giết hại hàng ngàn sĩ quan Ba Lan trong khu rừng ở Khatyn cũng nhằm mục đích như thế. Sau khi cách mạng đã xảy ra hàng chục năm, những người cộng sản vẫn tiếp tục áp dụng các biện pháp đàn áp, với hình thức có vẻ tinh vi hơn, nhưng có thể còn trên diện rộng hơn cả trong những ngày cách mạng (thí dụ như cải cách ruộng đất). Sau cách mạng, sự bất dung về tư tưởng càng ngày càng tăng thêm. Nâng cao vai trò của tư tưởng Marx-Lenin đối với đảng cầm quyền là một xu hướng thường trực ngay cả khi nó tự ý hay buộc phải giảm nhẹ các biện pháp đàn áp trực tiếp.
Khi cuộc trấn áp cách mạng chấm dứt thì các cuộc cách mạng trước đây, đặc biệt là cách mạng tư sản, liền hướng sự chú ý sang việc khẳng định quyền tự do cá nhân. Ngay những người cách mạng cũng coi việc đảm bảo các quyền công dân là một sự nghiệp có ý nghĩa trọng đại. Sự độc lập của toà án luôn luôn được coi là thành quả của cách mạng. Chế độ cộng sản ở Liên Xô cũng như ở bất kì quốc gia cộng sản nào khác sau bốn mươi năm tồn tại cũng chưa hề nghĩ tới điều đó.
Nếu coi việc nâng cao quyền công dân và việc người dân được pháp luật bảo vệ là thành quả của các cuộc cách mạng trước đây, thì điều đó không hề xảy ra trong cách mạng cộng sản.
Cuối cùng, còn một sự khác biệt lớn nữa giữa các cuộc cách mạng trước đây và cách mạng cộng sản thời hiện đại.
Các cuộc cách mạng trước đây, đặc biệt là các cuộc cách mạng lớn, nổ ra trong quá trình đấu tranh của các tầng lớp lao động, nhưng thành quả thì lại thuộc về một giai cấp khác, thuộc về giai cấp lãnh đạo thực hiện việc lãnh đạo về mặt tinh thần và thường là cả về mặt tổ chức của cách mạng. Thành quả của cuộc đấu tranh của những người nông dân và vô sản Pháp bị giai cấp tư sản - cách mạng chính là biểu hiện quyền lợi của giai cấp này - chiếm đoạt. Quần chúng cũng tham gia vào cách mạng cộng sản. Nhưng thành quả lại không thuộc về họ mà thuộc về tầng lớp quan liêu. Tầng lớp quan liêu không phải ai khác mà chính là cái đảng vừa thực hiện xong cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng cộng sản, các phong trào tiến hành cách mạng không biến mất. Các cuộc cách mạng cộng sản cũng “ăn thịt những người con của mình”, nhưng không ăn thịt tất cả.
Thực ra ngay sau khi cách mạng cộng sản thành công, nhất định phải xảy ra giai đoạn thanh toán nhau khốc liệt, đầy phản trắc giữa các nhóm, các trào lưu có những quan điểm khác nhau về con đường tiến lên của cách mạng. Sự kết án lẫn nhau luôn luôn diễn ra xung quanh việc chứng minh một cách giáo điều rằng ai phản cách mạng một cách “khách quan” hoặc “chủ quan” hơn, hoặc ai là tay sai của kẻ thù “bên trong” hay tư bản quốc tế. Dù cách giải quyết các cuộc tranh luận có như thế nào đi chăng nữa, chiến thắng vẫn thuộc về phía những người theo đuổi quá trình công nghiệp hoá theo các nguyên lí của chủ nghĩa cộng sản - buộc nền sản xuất phải phụ thuộc hoàn toàn vào đảng và các cơ quan nhà nước - một cách kiên trì nhất và kiên quyết nhất. Trong khi ăn thịt những đứa con của mình, cách mạng cộng sản có chừa lại một ít, đặc biệt nó không động đến những người quan trọng, những người cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá trong tương lai. Thường thì những nhà cách mạng tin tưởng một cách ngây thơ vào các khẩu hiệu và tư tưởng của cách mạng, tin vào khả năng thực hiện các khẩu hiệu đó bị tiêu diệt trước. Xu hướng coi ý nghĩa của cách mạng là củng cố chính quyền như công cụ của quá trình công nghiệp hoá theo nguyên lí của chủ nghĩa cộng sản là xu hướng thắng thế.
Trong cách mạng cộng sản, lần đầu tiên trong lịch sử một nhóm những người tham gia, các đại diện của cánh lãnh đạo đã thọ được sau thắng lợi, đã sống sót sau khi những người đồng chí của mình bị thủ tiêu. Trong các cuộc cách mạng trước đây nhóm này nhất định bị tiêu diệt. Cách mạng cộng sản là cuộc cách mạng đầu tiên được thực hiện “vì lợi ích” của một nhóm trong số những người cách mạng. Họ và bộ máy quan liêu, tụ tập xung quanh họ là những người được hưởng thành quả của cách mạng. Đấy chính là lí do để cho họ cũng như đông đảo quần chúng giữ mãi ảo tưởng về sự độc đáo của cách mạng, một cuộc cách mạng trung thành với chính mình, với những khẩu hiệu được viết trên những là cờ của mình. Chẳng phải là chính những người đó hay phần lớn trong số họ với những tư tưởng và khẩu hiệu cũ hay đã biến dạng một phần, vẫn lãnh đạo đảng được trui rèn trước cách mạng và nay là những người đứng đầu chính quyền giành được trong cách mạng đó ư?
4.
Ảo tưởng về mục đích và khả năng thực sự mà cuộc cách mạng cộng sản tạo ra không thể có sức mạnh và sức sống hơn ảo tưởng của các cuộc cách mạng trước đây nếu như nó không đồng thời hé mở cho người ta thấy một cách giải quyết hoàn toàn mới về quan hệ sở hữu, nói một cách khác nếu kết quả của nó không phải là một hình thức sở hữu mới. Tất cả các cuộc cách mạng trước đều ít nhiều tạo ra những biến động về quan hệ sở hữu. Nhưng lúc đó chỉ là một hình thức sở hữu tư nhân này đã chén ép một hình thức sở hữu khác. Bây giờ khác hẳn: đã xảy ra một sự biến đổi căn bản, triệt để, sở hữu tư nhân bị một loại sở hữu trước đó chưa hề tồn tại, sở hữu tập thể lấn át.
Ngay trong tiến trình cách mạng các điền trang lớn cũng như các tập đoàn tư bản kếch xù, nghĩa là những sở hữu có sử dụng lao động làm thuê đã bị tịch thu. Điều đó tạo ra niềm tin rằng lời hứa của những người cách mạng về việc tạo dựng một thiên đàng của công bằng và bình đẳng không phải là những lời nói suông. Đảng và chính quyền do đảng lãnh đạo đồng thời tiến hành những bước tiến mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá, điều đó càng củng cố thêm lòng tin của người dân: giờ giải phóng cho dân nghèo đã điểm. Không cần phải giấu giếm, chuyên chế và bạo lực hiện diện khắp nơi. Nhưng đấy chỉ là hiện tượng nhất thời, trong khi các giai cấp bị tước đoạt còn kháng cự, trong khi còn đủ mọi loại “phản động”, trong khi chưa cải tạo xong công nghiệp mà thôi!
Quá trình công nghiệp hoá đã có một số thay đổi. Công nghiệp hoá một đất nước lạc hậu lại không được sự trợ giúp, ngược lại, còn bị bên ngoài cản trở, đòi hỏi phải tập trung trong tay nhà nước tất cả mọi nguồn lực. Quốc hữu hoá các điền trang lớn, các tập đoàn tư bản lớn mới chỉ là bước đầu trong việc tập trung tài sản vào tay chính quyền mới.
Vấn đề chưa kết thúc ở đây. Và cũng không thể kết thúc ở đây được.
Tài sản mới được hình thành, những người cộng sản thường gọi tài sản tập thể hay tài sản xã hội chủ nghĩa, đôi khi họ gọi là tài sản nhà nước, nhất định sẽ mâu thuẫn với những hình thức sở hữu khác. Tài sản mới này phải gánh vác nhiệm vụ chính của quá trình công nghiệp hoá và vì vậy mâu thuẫn sẽ càng ngày càng gay gắt thêm. Tài sản của thợ thủ công, công nhân, nông dân, người buôn bán nhỏ, nghĩa là tại những cơ sở không hề sử dụng lao động làm thuê hoặc sử dụng không đáng kể cũng sẽ bị tập trung. Việc tịch thu tài sản của những chủ sở hữu nhỏ không có liên quan gì đến nhu cầu kinh tế, nghĩa là việc thay đổi hình thức sở hữu không nâng cao được hiệu quả kinh tế.
Khi tiến hành công nghiệp hoá người ta đã tịch thu tài sản của cả những tầng lớp không có biểu hiện chống phá, thậm chí còn giúp đỡ cách mạng nữa. Nhà nước đã trở thành chủ sở hữu, trở thành người quản lí cả những tài sản nhỏ đó nữa. Tài sản tư nhân đã không còn hay đã bị thu nhỏ đến mức vai trò của nó trở thành không đáng kể, đối với những người cầm quyền mới thì việc tiêu diệt hoàn toàn sở hữu tư nhân chỉ còn là vấn đề thời gian.
Trong nhận thức của những người cộng sản và một số quần chúng thì đấy chính là việc thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp, là thực hiện lí tưởng xã hội phi giai cấp. Đúng là cùng với việc hoàn thành công nghiệp hoá và tập thể hoá các giai cấp cũ đã không còn. Trong mắt của những người cộng sản thì ảo tưởng về xã hội phi giai cấp đã thành hiện thực. Họ tin như thế hay giả vờ tin như thế mặc cho sự bất bình của quần chúng, thậm chí họ còn tuyên bố một cách dối trá rằng đấy là “tàn dư của quá khứ”, là “âm mưu của kẻ thù giai cấp”.
Tất cả các cuộc cách mạng, thậm chí tất cả các cuộc chiến tranh đều tạo ra ảo tưởng. Ảo tưởng được tạo ra nhân danh những lí tưởng không thể nào thực hiện được, nhưng với người chiến sĩ đang hăng say chiến đấu thì đấy không phải là ảo tưởng, đấy chính là thực tế. Lí tưởng bạc màu, ảo tưởng cũng thành sương khói ngay khi chiến cuộc vừa lụi tàn. Nhưng cách mạng cộng sản thì khác. Ảo tưởng do nó tạo ra còn sống rất lâu trong lòng những người đã từng chiến đấu vì lí tưởng và cả trong quần chúng nữa. Bạo lực, chuyên quyền, cướp bóc trắng trợn, đặc quyền đặc lợi của tầng lớp nắm quyền, tất cả những điều đó vẫn không làm cho một bộ phận dân chúng, chưa nói những người cộng sản, giải thoát khỏi niềm tin mù quáng vào các khẩu hiệu của cách mạng. Dù sao cũng vẫn là “chủ nghĩa xã hội”, dù bất ngờ và dã man thật nhưng chúng ta “vẫn tiến được một bước về phía trước”... Niềm tin và hi vọng của con người vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả sau khi đã hoàn thành công nghiệp hoá.
Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.
Tất cả các dân tộc, bằng cách này hay các khác, đều phải trải qua cách mạng. Các cuộc cách mạng, tuy không thường xuyên, nhưng nhất định phải diễn ra. Cách mạng sẽ đưa đến chế độ chuyên chế, nhưng đồng thời lại dẫn dắt các dân tộc vào con đường mà trước đó họ chưa từng dám bước chân vào. Cách mạng cộng sản không thực hiện, không thể thực hiện được những lí tưởng mà nó từng giương cao trong cuộc đấu tranh. Nhưng nó đã đưa những vùng đất rộng lớn ở châu Á và châu Âu lên con đường văn minh hiện đại. Nó đã tạo ra tiền đề vật chất cho một xã hội tự do hơn trong tương lai. Nếu cách mạng cộng sản đã tạo ra chế độ độc tài tuyệt đối thì đồng thời cũng tạo ra tiền đề để loại bỏ nó trong tương lai. Nếu thế kỉ XIX đã tạo ra nền công nghiệp hiện đại cho phương Tây, thì thế kỉ XX sẽ làm điều đó cho phương Đông. Cái bóng khổng lồ của Lenin đã bao trùm lên một không gian rộng lớn trên lục địa Á-Âu trong suốt gần một trăm năm qua. Cùng với nền độc tài như ở Trung Quốc hay chế độ dân chủ như ở Ấn Độ và Myanmar tất cả các dân tộc châu Á và không chỉ các dân tộc châu Á đang tiến những bước vững chắc trên con đường công nghiệp hoá. Cách mạng Nga đã khởi đầu quá trình này và như vậy ta có thể nói đến giá trị không bao giờ phai mờ của nó.
5.
Từ những điều đã trình bày có thể có cảm tưởng rằng cách mạng cộng sản luôn luôn là một sự tình cờ có tính lịch sử và một sự lừa dối vĩ đại. Theo một nghĩa nào đó thì lí do như sau: không có cuộc cách mạng nào lại đòi hỏi những hoàn cảnh đặc biệt đến như thế và cũng không có cuộc cách mạng nào hứa nhiều như thế mà lại làm ít đến như thế.
Thói mị dân, những lời nói quanh co, không nhất quán là đặc trưng của các lãnh tụ cộng sản, nhất là khi họ buộc phải hứa hẹn một xã hội siêu lí tưởng và “thủ tiêu tất cả áp bức, bóc lột”.
Nhưng cũng không thể nói rằng những người cộng sản đã lừa nhân dân, không thể nói rằng họ đã cố tình đánh lừa rồi sau không chịu thực hiện. Sự thật là: họ không thể thực hiện được điều mà chính họ đã nhiệt liệt tin tưởng. Dĩ nhiên là họ không nhận như thế, họ không dám nhận ngay cả khi buộc phải hành động trái ngược hẳn với những điều đã hứa một cách thực tâm. Theo họ, công nhận điều đó cũng có nghĩa là công nhận rằng cách mạng là vô ích. Và như thế chính họ sẽ là những người vô tích sự. Chuyện đó thì không thể xảy ra được, nhất là đối với họ.
Kết quả cuối cùng của những xung đột xã hội không bao giờ giống và không thể giống với những điều đã được những người tham gia hoạch định từ trước, vì nó phụ thuộc vào một loạt hoàn cảnh mà trí tuệ và kinh nghiệm của con người không thể nắm bắt hết được. Điều đó còn đặc biệt đúng đối với những cuộc cách mạng đỏi hỏi những nỗ lực phi thường, những cuộc cách mạng thực hiện các thay đổi tận gốc rễ, tạo ra niềm tin tuyệt đối rằng sau chiến thắng sẽ là cuộc sống tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người. Cuộc Cách mạng Pháp được thực hiện nhân danh lí trí, với niềm tin rằng tự do, bình đẳng và bác ái nhất định sẽ tới. Cách mạng Nga được thực hiện nhân danh “thế giới quan khoa học”, vì một xã hội không còn giai cấp. Nhưng cả hai cuộc cách mạng đó không thể nào thắng lợi nếu những người cách mạng và cùng với họ là một bộ phận quần chúng không tin tưởng vững chắc vào lí tưởng của mình.
Niềm tin viển vông của những người cộng sản vào khả năng của họ sau cách mạng còn lớn hơn cả niềm tin của những người mà họ dẫn dắt. Công nghiệp hoá là không thể tránh, người cộng sản có thể biết và đã biết điều đó, nhưng hậu quả của nó đối với xã hội và các quan hệ xã hội thì họ không biết, họ chỉ có thể đoán mà thôi.
Các nhà sử học chính thức ở Liên Xô và Nam Tư thường mô tả cách mạng như là kết quả của những hành động được tính toán kĩ lưỡng từ trước. Nhưng thực ra chỉ có phương hướng cách mạnh và đấu tranh vũ trang là được hoạch định còn hình thức sẽ nảy sinh trong quá trình thực hiện, trong những hoàn cảnh cụ thể. Lenin rõ ràng là một trong những nhà cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử cũng không tưởng tượng được cách mạng sẽ nổ ra khi nào và dưới hình thức nào, ông cũng chỉ nắm được điều đó qua thực tiễn của cuộc đấu tranh. Tháng Giêng năm 1917, trước Cách mạng tháng Hai đúng một tháng và trước Cách mạng tháng Mười, cuộc cách mạng đã đưa ông đến quyền lực, có mười tháng, trong buổi thuyết trình trước các đảng viên xã hội Thuỵ Sĩ, ông đã nói như sau:
“Những người già cả chúng tôi có lẽ sẽ không được nhìn thấy những trận chiến quyết định của cuộc cách mạng tương lai. Nhưng tôi có thể nói một cách tin tưởng rằng các bạn trẻ đang hoạt động tích cực trong phong trào xã hội ở Thuỵ Sĩ và trên toàn thế giới sẽ có may mắn không chỉ đấu tranh mà còn chiến thắng trong cuộc các mạng vô sản trong tương lai” [2] .
Có cần thảo luận việc Lenin hay bất kì một người nào khác có thể dự đoán được những hậu quả xã hội của cuộc cách mạng, tiên đoán được những quan hệ sẽ hình thành trong và sau khi cuộc đấu tranh phức tạp và kéo dài ấy kết thúc hay không?
Mặc dù mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản là phi thực tế, nhưng khác với những người cách mạng trong quá khứ, người cộng sản tỏ ra rất thực tiễn trong việc thực hiện vai trò lịch sử của mình. Họ đã tiến hành công nghiệp hoá bằng một biện pháp duy nhất có thể: thiết lập chế độ toàn trị tuyệt đối.
Với cách mạng cộng sản, lần đầu tiên trong lịch sử, những người cách mạng không biến mất khỏi vũ đài chính trị mà còn tiến hành xây dựng các quan hệ xã hội mới, trái ngược hẳn với những gì họ từng tin và từng hứa với một tinh thần thực dụng cao độ, mặc dù không giải thoát hoàn toàn khỏi những ảo tưởng của thời tiền cách mạng. Trong quá trình cải tạo và cộng nghiệp hoá, cách mạng cộng sản đã biến chính các nhà cách mạng thành chủ nhân và người sáng tạo của xã hội mới.
Những dự đoán cụ thể của Marx và của Lenin về việc xây dựng một xã hội tự do, phi giai cấp thông qua chuyên chính vô sản tỏ ra là không chính xác. Nhưng công cuộc công nghiệp hoá xã hội trên cơ sở của nền công nghệ hiện đại thì đã thành hiện thực.
Khác với các qui luật khách quan, các qui luật khẳng định tính vạn năng hay có thể nói tính chính xác của mình; một lần nữa ta lại thấy vai trò của con người chỉ là tương đối, các dự đoán của con người chỉ là tương đối.
6.
Nếu muốn có một kết luận không phải trên thực tế khách quan mà theo các qui luật của logic hình thức thì ta có thể nói: cuộc cách mạng cộng sản đã dựa vào bộ máy nhà nước để thực hiện việc cưỡng bách trong những hoàn cảnh đặc biệt, nó đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp hoá tương tự như chủ nghĩa tư bản đã làm ở phương Tây cho nên nó chính là cuộc cách mạng tư bản – nhà nước và chiến thắng mà nó mang lại chính là quan hệ tư bản – nhà nước. Điều này đặc biệt đúng khi ta thấy nhà nước làm nhiệm vụ điều chỉnh tất cả quan hệ như chính trị, lao động và các quan hệ khác và điều đặc biệt quan trong là chính quyền làm nhiệm vụ phân phối thu nhập quốc dân, sử dụng những nguốn lực về hình thức đã trở thành sở hữu nhà nước.
Cuộc tranh cãi xung quanh vấn đề là quan hệ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác là quan hệ tư bản nhà nước, quan hệ xã hội chủ nghĩa hay quan hệ nào khác, là cuộc tranh cãi mang tính giáo điều. Thực ra nó đúng là vấn đề mang tính giáo điều.
Nhưng đây là một vấn đề cực kì quan trọng.
Ngay cả khi giả sử lời khẳng định của Lenin rằng tư bản nhà nước là “thời kì mở đầu của chủ nghĩa xã hội”, hay đây là giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội thì những người dân sống dưới chế độ chuyên chế cộng sản cũng không vì thế mà cảm thấy thoải mái hơn. Nhưng nếu ta có thể nhận thức được, một cách dù là tương đối, đặc điểm của sở hữu và quan hệ xã hội mà cách mạng cộng sản sẽ mang lại thì mới mong giải phóng con người khỏi các gông xiềng của nó. Nếu người ta không nhận thức được bản chất của các quan hệ trong xã hội mà họ đang sống và không biết phương pháp thay đổi các quan hệ đó thì cuộc đấu tranh của họ sẽ trở thành vô ích.
Như vậy, nếu đồng ý rằng cách mạng cộng sản, trái ngược với những lời hứa hẹn và những ảo tưởng, chỉ dẫn đến các quan hệ tư bản nhà nước thì ta sẽ nhận thấy rằng các biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động của bộ máy hành chính, giảm bớt sự tuỳ tiện và áp bức của nó chính là những biện pháp thực tế và đúng đắn. Các lãnh tụ cộng sản đã làm đúng như thế: họ luôn luôn kêu gọi hoàn thiện công tác quản lí hành chính và đấu tranh chống lại “chủ nghĩa quan liêu” mặc dù về mặt lí luận họ không công nhận rằng hệ thống của họ chính là chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Nhưng quan hệ ở đây không phải là quan hệ tư bản nhà nước và không thể tìm được lối ra, hệ thống không thể nâng cao hiệu quả một cách rõ rệt bằng biện pháp đơn giản như cải tiến hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước, không thể biến nó thành “bộ máy công bằng hơn” được.
Quan hệ trong chủ nghĩa cộng sản rất giống với quan hệ tư bản nhà nước về mặt hình thức và vai trò bao trùm lên toàn bộ của bộ máy nhà nước. Nhưng bên dưới cái mặt nạ đó là một cái gì đó hoàn toàn khác.
Để có thể nhận thức được bản chất các quan hệ xuất hiện trong cách mạng cộng sản và được củng cố vững chắc bởi quá trình công nghiệp hoá và hợp tác hoá cần phải chú ý đến vai trò và phương pháp hoạt động của nhà nước trong chế độ cộng sản. Ở đây phải nhấn mạnh rằng bộ máy nhà nước không phải là công cụ chủ yếu để tạo lập quan hệ sở hữu và các quan hệ xã hội khác, nó chỉ đóng vai trò người bảo vệ các quan hệ ấy mà thôi. Mọi thứ dường như đều được làm nhân danh và phù hợp với các qui định của nhà nước. Nhưng bên trên và đằng sau mọi hành động của nhà nước là đảng cộng sản. Cũng không phải là toàn đảng mà chỉ là tầng lớp quan liêu, tầng lớp chuyên nghiệp của đảng mà thôi. Chính tầng lớp quan liêu này mới là người sử dụng, quản lí và phân phối toàn bộ khối tài sản đã được quốc hữu hoá và tập thể hoá cũng như toàn thể đời sống xã hội nói chung. Chính vai trò độc quyền quản lí và phân phối thu nhập quốc dân cũng như mọi tài sản khác của quốc gia đã biến tầng lớp quan liêu này thành tầng lớp đặc quyền đặc lợi. Các quan hệ xã hội về mặt hình thức và nhìn từ bên ngoài thì có vẻ như là quan hệ tư bản nhà nước. Nguồn gốc của nó cũng dễ làm cho người ta nghĩ như thế: công nghiệp hoá không phải nhờ tư bản mà bằng các biện pháp cưỡng chế. Trong thực tế vai trò đó do một tầng lớp đặc quyền đặc lợi, sử dụng bộ máy nhà nước như là công cụ, như là bình phong về mặt pháp lí, thực hiện. Mọi người cũng đều biết như thế.
Nếu quyền sở hữu chỉ là quyền sử dụng và phân phối và nếu quyền đó chỉ thuộc về một nhóm người nhất định, thì điều đó có nghĩa là trong các nhà nước cộng sản đã xuất hiện một hình thức sở hữu hoàn toàn mới, nghĩa là đã xuất hiện một giai cấp bóc lột mới.
Không phải trên lời nói mà trên thực tế những người cộng sản đã hành động như mọi giai cấp nắm quyền khác, họ cũng không thể hành động khác được, trong khi tin tưởng rằng đang xây dựng một xã hội lí tưởng, họ chỉ xây dựng được cái xã hội phù hợp với sức lực của họ mà thôi. Những điều kiện cho việc hình thành xã hội đó đã chín muồi, cho dù nó không thể chín cho một xã hội lí tưởng như niềm tin mà cách mạng từng hứa hẹn. Như vậy ta có thể kết luận rằng với một số nước, trong một giai đoạn phát triển nhất định thì cuộc cách mạng và xã hội của họ không xuất hiện một cách vô tình và trái tự nhiên. Đấy là lí do vì sao xã hội đó, trong một giai đoạn nhất định, giai đoạn công nghiệp hoá, đã phải chịu và chịu đựng được bạo lực cộng sản, dù nó có tàn khốc và vô nhân đến mức nào. Sau đó thì bạo lực đã không còn cần thiết nữa, nó chỉ còn được sử dụng để đảm bảo đặc quyền ăn cướp của giai cấp mới mà thôi. Khác hẳn với các cuộc cách mạng trong quá khứ, cách mạng cộng sản nhân danh tiêu diệt giai cấp đã lập nên ách thống trị của một giai cấp mới.
Tất cả những điều khác chỉ là ảo tưởng hão huyền.
--------------
Chú thích
[1]I. V. Stalin, Toàn tập, Tập 6, trang 182, Moskva, 1954.
[2]V. I. Lenin, Toàn tập, Tập 30, trang 328.
Giai cấp mới
1.
Như đã nói ở trên, tại Liên Xô và các nước cộng sản khác, tất cả đã diễn ra không như tưởng tượng của các lãnh tụ nổi tiếng nhất như Lenin, Stalin, cũng như Trotsky và Bukharin. Cứ theo quan niệm của họ thì bộ máy nhà nước Liên Xô sẽ ngày một yếu đi, trong khi nền dân chủ sẽ ngày một mạnh thêm. Đã xảy ra điều hoàn toàn ngược lại. Người ta cho rằng mức sống sẽ được nâng cao nhanh chóng trong một tương lai không xa, nhưng hoá ra đời sống được cải thiện không đáng kể, trong các nước Đông Âu mức sống lại có phần bị sụt giảm: dù sao thì sự cải thiện điều kiện sống cũng không tương xứng với mức độ công nghiệp hoá. Người ta từng tin tưởng rằng mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay sẽ dần được san bằng, nhưng hoá ra các mâu thuẫn này ngày một sâu sắc thêm. Tình hình cũng xảy ra tương tự trong các lĩnh vực khác, kể cả các dự đoán về sự phát triển của thế giới phi cộng sản.
Nhưng ảo tưởng lớn nhất chính là ảo tưởng rằng cùng với việc công nghiệp hoá và tập thể hoá nghĩa là cùng với việc thủ tiêu sở hữu tư bản chủ nghĩa, Liên Xô sẽ trở thành xã hội phi giai cấp. Năm 1936, nhân dịp công bố Hiến pháp mới, Stalin tuyên bố rằng ở Liên Xô đã không còn giai cấp bóc lột, nhưng trên thực tế người ta không chỉ thực hiện xong quá trình thủ tiêu các nhà tư sản và các giai cấp khác của chế độ cũ mà còn thiết lập một giai cấp hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử.
Dễ hiểu là giai cấp mới này, cũng như mọi giai cấp trước nó trong quá khứ đã tự coi sự thống trị của mình là sự toàn thắng của hạnh phúc và tự do cho tất cả mọi người. Chỉ có một khác biệt duy nhất: thiếu khoan dung hơn, nó không cho phép nghi ngờ những ảo tưởng do nó áp đặt và không cho phép nghi ngờ quyền cai trị của mình. Điều đó lại chứng tỏ rằng sự thống trị của nó toàn triệt hơn mọi chế độ từng được biết đến trong lịch sử, thành kiến và ảo tưởng giai cấp của nó cũng tương đương như thế.
Cái giai cấp mới, tầng lớp quan liêu, đúng hơn phải nói tầng lớp chính trị quan liêu, không những mang trong mình nó tất cả đặc thù của các giai cấp bóc lột trước đó mà còn có những đặc trưng riêng biệt, khác hẳn. Ngay sự xuất hiện của nó, tuy có nhiều điểm chung với sự xuất hiện của những giai cấp khác, nhưng vẫn có những khác biệt.
Các giai cấp khác, trong đại đa số các trường hợp, cũng giành được tài sản và quyền lực bằng con đường cách mạng, nghĩa là phá bỏ các quan hệ chính trị, xã hội và các quan hệ cũ khác. Nhưng các giai cấp đó giành được chính quyền sau khi các hình thức kinh tế mới đã có thế thượng phong trong lòng xã hội cũ. Giai cấp mới trong hệ thống cộng sản xuất hiện không phải với mục đích hoàn thành các cuộc cải cách mà với ý định đặt nền móng cho các quan hệ kinh tế mới và sự thống trị của chính nó đối với xã hội.
Trong các thời đại trước, việc giành chính quyền của một giai cấp, một bộ phận của giai cấp hay của một đảng nào đó chính là hành động cuối cùng trong việc tạo lập và hình thành ý thức của thời đại. Tại Liên Xô tình hình diễn ra khác hẳn: giai cấp mới chỉ thực sự hình thành sau khi đã nắm được quyền lực. Nhận thức về thời đại tiếp tục phát triển - và phải phát triển vì cho đến lúc đó nó chưa ăn sâu, bén rễ vào đời sống của dân tộc – vượt trước cả khả năng kinh tế và khả năng vật lí của nó; còn vai trò của dân tộc và bức tranh của thế giới thì được vẽ ra dưới dạng lí tưởng hoá. Điều này tuy nhiên không làm giảm khả năng thực tế của nó. Ngược lại là khác. Cùng với những ảo tưởng và mặc dù có những ảo tưởng như thế, giai cấp mới chính là hiện thân của xu hướng công nghiệp hoá, một xu hướng đã trở thành đòi hỏi khách quan. Từ đó cũng xuất hiện tính thực dụng của nó. Niềm tin vào một thế giới lí tưởng do chính nó hứa hẹn đã cố kết đội ngũ, đã reo rắc ảo tưởng vào trong quần chúng nhưng cũng kêu gọi và động viên họ hoàn thành những công việc có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Vì giai cấp mới không thoát thai từ cội nguồn của các tiến trình kinh tế-xã hội hiện thực, ta chỉ có thể tìm thấy mầm mống của nó bên trong một tổ chức đặc biệt, một tổ chức dựa trên kỉ luật sắt và sự thống nhất về mặt tư tưởng. Họ phải lấy những nhân tố chủ quan, đấy là sự thống nhất về nhận thức và kỉ luật sắt để bù vào những khiếm khuyết khách quan trong lĩnh vực kinh tế và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội trong những giai đoạn đầu.
Nguồn gốc của giai cấp mới là đảng kiểu mới, đảng bolshevik. Lenin đã hoàn toàn có lí khi cho rằng đảng do ông thành lập là đảng đặc biệt trong lịch sử loài người, nhưng ông không thể nghĩ rằng chính đảng đó lại là cội nguồn của một giai cấp mới.
Đúng hơn phải nói rằng mầm mống của giai cấp mới không phải nằm trong toàn bộ đảng bolshevik mà chỉ nằm trong tầng lớp các nhà cách mạng chuyên nghiệp, lực lượng nòng cốt của đảng trước khi đảng giành được chính quyền. Không phải vô tình mà sau thất bại của Cách mạng năm 1905 Lênin đã khẳng định rằng chỉ có các nhà cách mạng chuyên nghiệp, nghĩa là những người lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp chính, ngoài ra họ không làm gì khác, mới có thể thành lập được một đảng kiểu mới mà thôi. Stalin, người kiến tạo giai cấp mới là biểu hiện rõ ràng nhất hình ảnh người cách mạng chuyên nghiệp kiểu đó. Nhóm các nhà cách mạng chuyên nghiệp đó đã phát triển dần dần thành một giai cấp cầm quyền mới. Các nhà cách mạng này sẽ còn đóng vai trò hạt nhân của nó trong một thời gian dài nữa. Trotsky đã nhận xét rằng chính các nhà cách mạng chuyên nghiệp đã tạo ra mầm mống của bộ máy quan liêu của Stalin. Nhưng ông đã không hiểu một điều, đây chính là mầm mống của một giai cấp cầm quyền, giai cấp bóc lột mới.
Nhưng điều đó không có nghĩa là đảng và giai cấp là một. Đảng chỉ là hạt nhân, là cơ sở. Thật khó, thậm chí không thể xác định được ranh giới của giai cấp mới và không thể liệt kê được tất cả các thành viên của nó. Nói chung, bất cứ người nào nhờ độc quyền trong việc quản lí mà có đặc lợi về kinh tế thì đều có thể coi là thuộc giai cấp mới cả.
Đồng thời công tác quản lí cũng là một công việc cần thiết cho xã hội cho nên cá nhân có thể vừa là một người có ích vừa là một kẻ ăn bám. Rõ ràng rằng không phải đảng viên nào cũng nằm trong giai cấp, cũng như không phải bất kì người thợ thủ công hay đảng viên đảng tư sản nào cũng được coi là nhà tư bản vậy.
Một cách chung nhất có thể nói rằng: cùng với việc củng cố giai cấp mới, khi bộ mặt của nó ngày càng thể hiện rõ thì vai trò của đảng cũng ngày càng giảm đi. Hạt nhân và cơ sở của giai cấp mới đã hình thành ở bên trong cũng như trên đỉnh quyền lực của đảng cũng như của bộ máy nhà nước. Cái đảng từng có lúc là một tổ chức sinh động, đầy sáng kiến, thì nay, đối với những người cầm đầu của giai cấp mới, họ đã biến thành một vật trang trí, càng ngày chỉ càng kéo vào hàng ngũ của mình những kẻ hãnh tiến, những kẻ muốn nhập vào hàng ngũ của giai cấp mới và đẩy những người vẫn còn tin vào lí tưởng ra.
Đảng sinh ra giai cấp. Sau đó giai cấp tự phát triển bằng chính nguồn lực của mình và sử dụng đảng như là cơ sở. Giai cấp thì mạnh lên, trong khi đảng thì yếu đi, đấy là số phận không thể cưỡng lại được của tất cả các đảng cộng sản cầm quyền.
Một đảng không quan tâm đến việc tái sản xuất, nghĩa là không mang trong mình nó giai cấp mới và tài sản của giai cấp ấy thì không thể nào trụ vững được về mặt tư tưởng và đạo đức, hơn nữa lại có thể cầm quyền lâu trong một thời gian dài như đảng cộng sản. Sau khi hoàn thành kế hoạch năm năm lần thứ nhất, Stalin hùng hồn tuyên bố rằng nếu không thành lập được bộ máy thì “chúng ta” đã thất bại rồi! Đáng ra phải nói thành lập “giai cấp mới” thì mọi sự đã rõ ràng hơn.
Việc một đảng chính trị trở thành mầm mống của một giai cấp mới có vẻ như là một việc không hoàn toàn bình thường. Thường thì đảng là sản phẩm của các giai cấp hay tầng lớp dân cư đã đạt đến một trình độ phát triển kinh tế và tinh thần nhất định. Nhưng nếu xem xét kĩ các bước thăng trầm của nước Nga và các nước khác, nơi mà chủ nghĩa cộng sản đã giành thắng lợi bằng nội lực thì ta sẽ thấy rằng cái đảng kiểu mới đó chính là sản phẩm của những hoàn cảnh cụ thể và không phải là hiện tượng bất thường và vô tình. Mặc dù chủ nghĩa cộng sản có nguồn gốc từ trong sâu thẳm của lịch sử Nga, nó còn là phó sản của hoàn cảnh chính trị mà nước Nga rơi vào trong cuộc chuyển tiếp giữa thế kỉ XIX và thế kỉ XX. Sự phát triển đã buộc nước Nga phải thoát ra khỏi chế độ độc tài chuyên chế, nhưng chủ nghĩa tư bản lại quá yếu, phụ thuộc vào tư bản nước ngoài, không đủ sức thực hiện cách mạng công nghiệp. Việc đó chỉ có thể được thực hiện bởi một giai cấp mới, dĩ nhiên là giai cấp này sẽ thực hiện theo những quan điểm riêng của mình.
Giai cấp như vậy chưa tồn tại.
Lịch sử không quan tâm đến việc ai làm, quan trọng là điều cần thiết đã được làm. Điều đó đã xảy ra ở Nga và ở các nước đã từng diễn ra các cuộc cách mạng cộng sản khác. Cách mạng đã tạo ra lực lượng: đấy là các lí tưởng, các tổ chức và những lãnh tụ cần thiết. Giai cấp mới đã hình thành từ những điều kiện khách quan, do ý chí, tư tưởng và hành vi của những lãnh tụ cách mạng.
2.
Giai cấp mới có nguồn gốc từ những người vô sản. Quí tộc thoát thai từ tầng lớp nông dân, giai cấp tư sản sinh ra từ những người buôn bán, thợ thủ công, các điền chủ thời trung cổ, tương tự như vậy, giai cấp mới được hình thành từ tầng lớp vô sản. Ở đây có thể có một số ý kiền bất đồng là do điều kiện đặc thù của từng dân tộc. Nhưng “vật liệu” hình thành nên giai cấp mới thì vẫn là tầng lớp vô sản ở những nước kém phát triển và chính tầng lớp ấy cũng còn rất lạc hậu.
Nhưng nguồn gốc không phải là lí do duy nhất, thậm chí chỉ là lí do phụ giải thích vì sao giai cấp mới luôn luôn nói rằng họ là đại diện của giai cấp công nhân. Họ làm điều đó vì những lí do khác. Thứ nhất giai cấp này tuyên bố lập trường chống tư bản cho nên nó phải tìm sự ủng hộ của các tầng lớp lao động, thứ hai nó dựa vào cuộc đấu tranh và niềm tin của giai cấp vô sản về chế độ cộng sản, nơi không còn cảnh người bóc lột người dã man nữa. Ngoài ra giai cấp mới còn phải quan tâm đến việc đảm bảo cho qúa trình sản xuất hoạt động bình thường, đấy cũng là lí do nó phải cố gắng để không bị mất liên hệ với quần chúng lao động. Nhưng quan trọng nhất là giai cấp mới không thể tiến hành công nghiệp hoá và bằng cách đó củng cố sức mạnh của mình nếu không có giai cấp công nhân, những người vẫn coi việc nâng cao vai trò của công nghiệp là con đường thoát khỏi cảnh nghèo nàn và tuyệt vọng mà chính giai cấp này cũng như toàn dân tộc đang lâm vào. Quyền lợi, lí tưởng, hi vọng và niềm tin của giai cấp mới, của một bộ phận giai cấp công nhân và bần cố nông đã song hành với nhau trong một thời gian dài. Sự đồng thuận như vậy cũng đã từng xảy ra giữa các giai tầng của các giai cấp khác nhau trong quá khứ. Chả phải là giai cấp tư sản đã là người đại diện cho tầng lớp nông dân trong cuộc đấu tranh phản phong đấy ư?
Con đường đưa giai cấp mới đến với quyền lực là tham gia vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và những tầng lớp cùng khổ khác, các tầng lớp này chính là chỗ dựa của đảng, đúng hơn phải nói: của giai cấp mới. Quyền lợi của các lực lượng này liên kết chặt chẽ với nhau cho đến khi giai cấp mới thiết lập được sự thống trị của mình. Sau đó thì giai cấp vô sản và các tầng lớp nghèo khổ khác chỉ còn được quan tâm vì nhu cầu của sản xuất và giữ cho những tầng lớp dễ biến động và nổi loạn trong vòng kìm kẹp mà thôi.
Địa vị độc tôn đối với toàn xã hội mà giai cấp mới nhân danh giai cấp công nhân lập nên trước hết là sự độc tôn ngay với giai cấp công nhân, ban đầu là trong lĩnh vực tinh thần, dưới danh nghĩa là đội tiên phong của giai cấp vô sản, sau đó là trong tất cả các lĩnh vực khác, thực chất là một sự lừa dối vĩ đại mà giai cấp mới buộc phải thực hiện. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng nguồn sức mạnh và lĩnh vực quan tâm của giai cấp mới chính là công nghiệp. Không có công nghiệp thì giai cấp mới không những không thể ổn định mà cũng không thể khẳng định được địa vị thống trị của mình.
Giai cấp mới luôn luôn được bổ sung bằng những người xuất thân từ giai cấp công nhân. Số phận của tầng lớp nô lệ từ xưa đến nay vẫn là như thế, họ phải cống nạp cho các ông chủ những đại diện tài năng nhất, có tầm nhìn xa trông rộng nhất của mình. Trong trường hợp này giai cấp bóc lột mới đã phát sinh và phát triển từ chính giai cấp bị bóc lột.
3.
Khi phân tích một cách có phê phán hệ thống cộng sản người ta thường đưa ra đặc trưng cơ bản nhất của hệ thống này, đây là việc toàn dân phải chịu khuất phục trước một tầng lớp đặc biệt, tầng lớp các viên chức quan liêu. Nói chung thì điều đó đúng. Nhưng khi phân tích một cách kĩ hơn thì ta sẽ thấy rằng toàn dân phải chịu khuất phục trước những con người cụ thể, những người trong thực tế không phải là quan chức hành chính, những người hợp thành hạt nhân của bộ máy quan liêu, hay theo cách gọi của tôi là giai cấp mới. Trên thực tế đấy chính là bộ máy quan liêu chính trị, bộ máy của đảng. Tất cả các viên chức khác chỉ là người giúp việc, ở đây có thể là một bộ máy vừa to lớn vừa chậm chạp nhưng cần thiết cho mọi cộng động. Sự phân biệt giữa nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai có thể được nhận biết về mặt xã hội học, nhưng trong cuộc sống thì hai nhóm này là không thể tách biệt. Vấn đề không chỉ bởi vì toàn bộ hệ thống cộng sản là một hệ thống có tính chất quan liêu, tầng lớp quan liêu chính trị và hành chính đều có thể náu mình trong đó mà còn vì các đảng viên thường khi cũng thực hiện những nhiệm vụ quản lí có ích nhất định. Ngoài ra, tầng lớp quan chức chính trị không thể nắm hết đặc quyền đặc lợi, nó phải chia bớt một phần cho những quan chức khác nữa.
Ngoài ra cần phải nhận rõ sự khác nhau giữa bộ máy quan liêu chính trị đã nói ở trên với bộ máy quan liêu xuất hiện trong quá trình tập trung hoá của nền sản xuất hiện đại (sự độc quyền, các công ty, tài sản nhà nước). Trong các công ty độc quyền tư bản số lượng viên chức cũng đang tăng lên một cách nhanh chóng. Điều đó cũng đúng đối với cả các ngành công nghiệp đã được quốc hữu hoá ở phương Tây nữa. R. Dabin khẳng định rằng các viên chức nhà nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất được coi là một tầng lớp đặc biệt: “Các viên chức thường sống gắn bó với các đồng nghiệp. Quyền lợi chung thường đóng vai trò chất kết dính, gắn bó họ với nhau, đặc biệt là sự cạnh tranh nội bộ ít xảy ra vì sự thăng tiến phụ thuộc vào thâm niên công tác. Khả năng xảy ra xung đột nội bộ như vậy là gần như không có, và người ta cho rằng điều đó có ảnh hưởng tích cực đối với bộ máy quan liêu. Nhưng tinh thần đồng đội và cơ cấu xã hội lại dẫn đến kết quả là cá nhân thường chăm lo đến quyền lợi của mình chứ không còn quan tâm đến khách hàng hay các viên chức cấp cao do bầu cử mà ra” [1].
Mặc dù có nhiều điểm giống nhau, nhất là tinh thần đồng đội, nhưng các viên chức quan liêu cộng sản không phải là các quan chức phương Tây đã được nói tới ở trên. Khác biệt là ở chỗ: tuy cũng là một giai tầng đặc biệt nhưng các viên chức nhà nước trong các nước không cộng sản không có quyền quyết định về tài sản, trong khi các viên chức cộng sản lại làm chính công việc ấy. Bên trên các viên chức phương Tây là các chính trị gia, thường là thông qua bầu cử hoặc là các ông chủ thực sự, trong khi đó bên trên các viên chức cộng sản thì không còn ai, không có chủ nhân cũng chẳng còn người quản lí nào khác, chỉ có họ với nhau mà thôi. Ở phương Tây thì đấy là các công chức trong nhà nước hiện đại hay các viên chức trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, còn ở đây là một hiện tượng hoàn toàn khác, ta thấy một giai cấp mới.
Tương tự như các giai cấp hữu sản khác, minh chứng cho sự tồn tại của một giai cấp đặc biệt chính là sở hữu và quan hệ đặc thù của nó với những giai cấp khác. Chỉ cần nhìn vào đặc quyền do cái sở hữu kia mang lại là ta biết ngay một cá nhân cụ thể có thuộc về giai cấp ấy hay không.
Nếu xem xét khái niệm “sở hữu” theo quan điểm được khoa học xác định ngay từ thời La Mã, như là quyền chiếm hữu, quản lí và sử dụng (usus, Fructus, abusus) sản phẩm vật chất thì tầng lớp quan liêu cộng sản đã thực hiện chính những quyền ấy đối với tài sản quốc gia. Còn muốn biết một người có thuộc tầng lớp quan liêu, tầng lớp hữu sản hay không, chỉ cần xem người đó được sử dụng những gì do tài sản đó mang lại, trong trường hợp này là tài sản đã được quốc hữu hoá. Một người được coi là thuộc về tầng lớp đảng trị quan liêu, thuộc về giai cấp mới nếu người đó nhận được nhiều hơn cái đáng lẽ xã hội phải trả cho phần công việc mà người đó thực hiện, cũng như trong mọi vị trí xã hội đặc quyền đặc lợi khác, chính vị trí mang lại cho người ta quyền được hưởng mọi ưu đãi. Trên thực tế quyền sở hữu của giai cấp mới được thể hiện trong việc bộ máy quan liêu đảng trị nắm toàn bộ quyền hành trong việc phân phối thu nhập quốc dân, định đoạt mức lương, lựa chọn phương hướng phát triển của nền kinh tế, cũng như quản lí số tài sản đã được quốc hữu hoá cũng như mọi tài sản khác mà trong con mắt một người dân bình thường thì đây là công việc vừa sức, có thu nhập cao chứ hoàn toàn không phải là một công việc quá nặng nề đối với người cán bộ cộng sản.
Sau khi đã huỷ bỏ quyền sở hữu tư nhân, về nguyên tắc giai cấp mới không thể dựa vào một kiểu sở hữu tương tự được nữa. Quan hệ sở hữu tư nhân không những không phù hợp đối với việc thiết lập quyền thống trị của giai cấp mới mà việc bãi bỏ quan hệ sở hữu này còn là điều kiện cần thiết về mặt kinh tế để cải tạo toàn bộ dân tộc. Giai cấp mới khai thác sức mạnh, đặc quyền, tư tưởng và thói quen từ một hình thức sở hữu đặc thù. Đấy là sở hữu tập thể, nghĩa là cái sở hữu mà nó có quyền quản lí và phân phối “nhân danh” dân tộc, “nhân danh” xã hội.
Hình thức quan hệ sở hữu cộng sản nói trên có xu hướng ràng buộc với những quan hệ xã hội hoàn toàn xác định. Đấy là quan hệ giữa sự quản lí độc quyền, một bên là một nhóm người rất nhỏ làm công việc quản lí và bên kia là đám quần chúng công nhân, nông dân và trí thức chẳng có một chút quyền hành gì. Nhưng mối quan hệ đó vẫn chưa phải là tất cả vì tầng lớp quan liêu cộng sản còn nắm độc quyền trong việc phân phối sản phẩm nữa.
Từ đó có thể thấy rằng bất kì sự thay đổi quan hệ xã hội nào, nghĩa là sự thay đổi quan hệ giữa những kẻ giữ độc quyền quản lí và người lao động nhất định sẽ dẫn tới thay đổi trong quan hệ sở hữu. Và ngược lại: sự giảm thiểu hay loại bỏ độc quyền phân phối sản phẩm sẽ làm thay đổi quan hệ xã hội đã nói ở trên, nghĩa là sẽ làm thay đổi tình trạng trong đó một số người được độc quyền quản lí còn số khác thì buộc phải làm việc.
Trong chế độ cộng sản quan hệ chính trị - xã hội và sở hữu (chính quyền toàn trị và độc quyền về sở hữu) liên kết và bổ sung cho nhau một cách hữu hiệu hơn bất kì hệ thống xã hội nào khác.
Tước bỏ quyền của những người cộng sản đối với sở hữu cũng có nghĩa là thủ tiêu họ như một giai cấp. Đấu tranh để buộc họ cho những lực lượng xã hội khác tham giai quản lí tài sản (giống như các nhà tư sản bị các cuộc đình công và quốc hội buộc phải cho công nhân tham gia vào việc phân chia lợi nhuận) cũng có nghĩa là tước bỏ của họ độc quyền đối với tài sản, độc quyền tư tưởng và độc chiếm chính quyền. Đấy sẽ là khởi đầu của dân chủ và tự do dưới chế độ cộng sản. Vì vậy khi điều đó chưa xảy ra thì việc thuyết phục người ta rằng có thể đạt được những thay đổi sâu sắc và nghiêm túc dưới chế độ cộng sản là một việc bất khả thi. Như vậy, sự thay đổi thật sự sâu sắc chỉ có thể là loại bỏ độc quyền cộng sản về kinh tế và chế độ toàn trị. Hiện tại thì chưa có tín hiệu nào rằng điều đó sẽ xảy ra trong một tương lai gần.
Quyền sở hữu của giai cấp mới cũng như việc một người được coi là thuộc vào giai cấp đó, như đã nói ở trên, được thực hiện thông qua đặc quyền quản lí của họ. Đặc quyền này bao trùm lên toàn bộ đời sống xã hội, từ quản lí nhà nước và quản lí kinh tế cho đến các cơ sở thể thao hoặc từ thiện. Lãnh đạo đảng, lãnh đạo chính trị chính là hạt nhân của toàn bộ hệ thống, có khả năng quản lí tất. Chính nó tạo ra đặc quyền đặc lợi. A. Uralov [2] viết rằng lương trung bình của người công nhân Liên Xô vào năm 1935 chỉ có một ngàn tám trăm rub, trong khi bí thư huyện uỷ lĩnh tổng cộng khoảng 45 ngàn rub. Từ đó đến nay vị trí của người công nhân và cán bộ đảng đã có thay đổi. Nhưng thực chất vẫn như xưa. Các tác giả khác cũng đưa ra những số liệu tương tự. Không thể che giấu được những mối quan hệ như thế với ngay cả những người khách viếng thăm Liên Xô và các nước cộng sản khác trong thời gian vừa qua.
Các hệ thống khác cũng có các chính khách chuyên nghiệp. Ta muốn nghĩ về tầng lớp này thế nào cũng được, tốt có, xấu có, nhưng họ là một tầng lớp cần thíêt. Xã hội không thể tồn tại mà không có chính quyền, không có nhà nước, cũng như không thể thiếu những người đấu tranh để giành quyền lực.
Nhưng các chính khách chuyên nghiệp trong các hệ thống ấy là những người khác hẳn với các chính trị gia cộng sản. Trong trường hợp xấu nhất các chính khách đó có thể sử dụng quyền lực để giành đặc lợi cho mình hoặc cho những kẻ đồng hội đồng thuyền với mình, hoặc bảo vệ quyền lợi kinh tế của những giai tầng nhất định trong xã hội. Xã hội cộng sản thì khác hẳn. Ở đây chính sự quản lí, chính quyền lực đã đồng nghĩa với chiếm hữu, quản lí và sử dụng gần như toàn bộ nguồn lực quốc gia. Giành được chính quyền nghĩa là giành được đặc quyền đặc lợi, và một cách gián tiếp là giành được sở hữu. Cho nên trong chế độ cộng sản quyền lực, chính trị như là một nghề, đã trở thành nếu không phải là nghề lí tưởng của tất cả mọi người (vì đối với số đông thì được làm quan là việc thiên nan vạn nan) thì cũng là nỗi khát khao của những người kẻ muốn được sống ăn bám hoặc cảm thấy rằng có hi vọng “lọt” vào được tầng lớp ăn bám đó.
Trước cách mạng, đảng viên cộng sản có nghĩa là nghèo khổ về vật chất, thoát li hoạt động cách mạng là vinh dự, thì giờ đây, khi đảng đã nắm được chính quyền đảng viên đồng nghĩa với thành viên của giai cấp nắm quyền, hoạt động cách mạng đồng nghĩa với việc trở thành những kẻ bóc lột đầy quyền uy.
Cách mạng cộng sản và hệ thống cộng sản cố tình che giấu bản chất của mình trong một thời gian dài. Tương tự như vậy, quá trình hình thành giai cấp mới không chỉ được che đậy bằng những thuật ngữ xã hội chủ nghĩa mà quan trọng hơn bằng hình thức sở hữu mới, sở hữu tập thể. Một hình thức sở hữu mới, sở hữu tập thể, hay như thường gọi là sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa là cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá, nhưng thực ra đấy chính là hình thức sở hữu của tầng lớp quan liêu chính trị. Bản chất giai cấp của hình thức sở hữu này được che đậy bằng bình phong quyền lợi của toàn dân tộc.
4.
Marx - Lenin - Stalin - Khrushchev: lãnh tụ thay đổi, cách truyền bá tư tưởng cũng thay đổi theo. Marx là người có ý chí, nhưng ông không thể tưởng tượng ra cảnh cấm một người nào đó trình bày tư tưởng của anh ta; Lenin vẫn còn khoan dung với những cuộc thảo luận trong đảng và không cho rằng tổ chức đảng hay lãnh tụ đảng có quyền coi điều này là “đúng đắn” về tư tưởng, điều kia là “sai lầm”; Stalin cấm mọi cuộc thảo luận trong nội bộ đảng và “chuyển” cho trung ương, nghĩa là cho chính mình độc quyền về tư tưởng. Các hình thức của phong trào cũng biến đổi theo: Liên hiệp công nhân quốc tế của Marx (Quốc tế thứ nhất), chưa phải là tổ chức mac-xit về tư tưởng mà chỉ là sự kết hợp của các nhóm khác nhau, cùng ra các nghị quyết với một sự đồng thuận nhất định; đảng của Lenin là một nhóm tiên phong với một sự thống nhất, một tư tưởng và đạo đức của riêng họ và một mức độ dân chủ nhất định; dưới gót giày của Stalin, đảng đã trở thành một đám đông ù lì về tư tưởng (vì tư tưởng được “rót từ trên xuống”), nhưng toàn tâm toàn ý bảo vệ hệ thống, bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho họ. Thực ra Marx chưa hề thành lập ra bất kì đảng phái nào; Lenin tiêu diệt mọi đảng phái, kể cả các đảng xã hội chủ nghĩa, chỉ để lại đảng của chính mình; Stalin thì đẩy ngay cả đảng bolsevk vào hậu trường sau khi đã biến hạt nhân của nó thành hạt nhân của giai cấp mới và biến toàn đảng thành một giai tầng đặc quyền đặc lợi vô cảm và phi nhân.
Marx đã tạo ra một lí thuyết nhất quán về tác động của các giai cấp và đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội (mặc dù đây không phải là phát kiến của chính ông), ông đánh giá con người chủ yếu từ thành phần giai cấp của họ. Mặc dù vậy ông vẫn thường nhắc đi nhắc lại lời giáo huấn của Terentius: Nihil a me alienum puto (đúng hơn phải là: Nihil humani a me alienum puto – Không có gì của con người là xa lạ với tôi); Lenin đánh giá con người trên cơ sở quan điểm tư tưởng của người đó chứ không dựa vào thành phần giai cấp nữa; Stalin thì chia loài người thành hai: trung thành và kẻ thù. Marx chết như một người nhập cư nghèo khổ ở London, nhưng ông được cả những nhà tư tưởng lớn cũng như các đồng chí trong phong trào đánh giá rất cao; Lenin chết khi đã là lãnh tụ của một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất, và đã là một nhà độc tài vì xung quanh ông đã có một số nịnh thần rồi; Stalin thì đã được người ta biến thành thánh.
Sư biến đổi trong những khuôn mặt đại diện nói trên chỉ là phản ánh sự biến đổi của hiện thực khách quan và dĩ nhiên cũng là sự biến đổi của đời sống tinh thần của phong trào nữa.
Lenin, người sáng lập đảng bolshevik, một đảng kiểu mới và lí thuyết về vai trò đặc biệt của nó trong việc xây dựng xã hội mới chính là cha đẻ về mặt tinh thần và thực tế của giai cấp mới, mặc dù ông không hề nhận thức được điều đó. Dĩ nhiên đây không phải là trang sử duy nhất trong khối di sản đồ sộ và nhiều mặt của ông. Nhưng nó xuất hiện từ chính những hành động của ông, dù ông không hẳn muốn như thế, và vì vậy giai cấp mới cho đến nay vẫn coi ông là người cha tinh thần của mình.
Người sáng lập thật sự giai cấp mới chính là Stalin. Đấy là một người vai so, chân tay quá dài, thân người lại ngắn, bụng bự, khuôn mặt nông dân, khá điển trai, đôi mắt nâu, sáng, tinh ranh và lúc nào cũng như đang cười cợt, tỏ ra khoái trá mỗi khi nói được một lời châm biếm chua cay hay khôn vặt; một người thích những chuyện tiếu lâm thô lậu, thiếu giáo dục và không hẳn có tài về văn chương, một diễn giả kém, nhưng là một nhà tổ chức thiên tài, một người giáo điều thâm căn cố đế, nhưng cũng là một nhà quản lí vĩ đại, một người Gruzia, nhưng lại hiểu rõ hơn ai hết khát vọng của những người Nga mới – ông đã sáng lập ra một giai cấp mới bằng những phương pháp tàn bạo nhất. Dễ hiểu rằng ban đầu ông đã được giai cấp mới đẩy lên để rồi sau đó lại phải cúi rạp mình tuân phục những hành vi tàn bạo và không có ai kiềm chế được của Stalin. Stalin đã là người dẫn đầu, là lãnh tụ xứng đáng trong khi cái giai cấp ấy tiến từng bước một lên đỉnh cao quyền lực của mình.
Giai cấp mới đựơc tượng hình trong bão tố của cách mạng, trong lòng của đảng cộng sản, nhưng nó đã có hình hài như ngày nay là nhờ cách mạng công nghiệp: vị trí của nó chẳng thể vững chắc và sức lực của nó chẳng thể được củng cố nếu không có cuộc cách mạng công nghiệp và nền công nghiệp ấy. Hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội cũng đồng nghĩa với việc giai cấp mới đã giành thắng lợi. Hai quá trình đó đã song hành với nhau và do hoàn cảnh đã đan xen, đã xoắn xuýt với nhau một cách chặt chẽ nhất.
Giữa cao trào công nghiệp hoá, sau khi đã mở tung cánh cửa của đủ mọi thứ đặc quyền đặc lợi, Stalin bắt đầu đưa ra các mức lương chênh lệch nhau một trời một vực. Ông ta hiểu rằng không thể thực hiện được tiến trình công nghiệp hoá nếu như giai cấp mới không nhận được quyền lợi về mặt vật chất, nếu không cho nó quyền sở hữu tài sản. Nếu không có công nghiệp hoá thì giai cấp mới cũng khó mà sống còn được: không có nguồn sống và cũng chẳng thể tìm được sự biện hộ về mặt lịch sử.
Cùng với việc công nghiệp hoá là sự mở rộng đội ngũ của tầng lớp quan liêu, tăng cường số lượng đảng viên của đảng. Khởi đầu công nghiệp hoá, năm 1927 đảng có tổng cộng 887.233 đảng viên, thì năm 1934, nghĩa là sau kế hoạch năm năm lần thứ nhất, đã có 1.847.448 người. Đây là một hiện tượng mới, liên quan trực tiếp đến quá trình công nghiệp hoá: các cơ hội của giai cấp mới đã tăng lên, đặc quyền đặc lợi của những thành viên của nó cũng gia tăng. Hơn thế nữa, đặc quyền đặc lợi và chính cái giai cấp đó đã phình lên nhanh hơn tốc độ công nghiệp hoá. Khó mà đưa ra được các số liệu chứng minh cho điều đó, nhưng một người quan sát bình thường cũng có thể nhận thấy điều đó, hơn nữa nếu ta nhớ rằng sản xuất đã phát triển nhanh hơn khả năng cải thiện điều kiện sống của người dân. Phần lớn thành quả của tiến bộ kinh tế đạt được bằng giá của những mất mát và sự nỗ lực vô bờ bến của quần chúng rõ ràng là đã rơi vào tay giai cấp mới.
Chính quá trình hình thành giai cấp mới cũng không diễn ra một cách hoàn toàn suôn sẻ. Sự kháng cự không chỉ xuất phát từ các giai cấp và các đảng phái cũ, mà từ ngay một số người người cách mạng, những người không thể chấp nhận hiện thực nhãn tiền khi so sánh nó với lí tưởng mà họ từng theo đuổi. Tại Liên Xô sự phản kháng của những người cách mạng thể hiện rõ nhất trong cuộc xung đột giữa Trotsky và Stalin. Không phải vô tình mà cuộc tranh chấp giữa Trotsky và Stalin, giữa những người đối lập trong đảng với Stalin, giữa chế độ và tầng lớp nông dân, lại có những hình thức biểu hiện rõ rệt nhất chính vào lúc quyền lực và sự thống trị của giai cấp mới được củng cố.
Trotsky, một diễn giả tài ba, một ngòi bút tinh tế, sắc sảo, một người thông minh, có tầm hiểu biết rộng, nhưng lại thiếu một điều: cảm nhận thực tế. Ông muốn tiếp tục là người cách mạng khi mà mọi người đã muốn sống cuộc sống đời thường. Ông muốn làm hồi sinh một đảng cách mạng, trong khi chính nó đã biến thành một giai cấp mới, giai cấp không còn quan tâm tới những lí tưởng cao cả nữa, nhưng lại hoàn toàn không thờ ơ đối với những tiện nghi trong sinh hoạt hàng ngày. Ông chờ đợi phản ứng của quần chúng, cái quần chúng đã bị chiến tranh, đói khát làm cho kiệt quệ ngay đúng vào lúc giai cấp mới đã nắm được trọn vẹn quyền lực. Sau khi đã giành được đặc quyền đặc lợi giai cấp mới bắt đầu ru ngủ quần chúng bắng cách vẽ ra cảnh ấm no mà người ta từng mơ ước bấy lâu. Ánh hào quang mà Trotsky vẽ ra có thể nhuộm hồng những chân trời xa tít, nhưng không thể khơi lên ngọn lửa trong bếp của những con người đói khát. Ông đã cảm thấy một cách rõ ràng mặt trái của những hiện tượng mới, nhưng ông không hiểu được ý nghĩa của chúng. Hơn nữa ông cũng không phải là một người bolshevik, đấy vừa là điểm mạnh và cũng là điểm yếu của ông. Quá khứ “phi” bolshevik làm ông luôn luôn phải hành động với cảm giác thiếu tự tin. Khi nhân danh cách mạng đả phá tầng lớp quan liêu, ông đã không nhận ra rằng mình đang tấn công vào uy tín của đảng, nghĩa là tấn công vào giai cấp mới. Trong khi đó Stalin chẳng thèm quan tâm đến quá khứ cũng như tương lai. Ông ta đã khống chế được lực lượng của một giai cấp mới, của chế độ quan liêu đang định hình, trở thành lãnh tụ và người tổ chức của chính giai cấp đó. Ông ta không tuyên truyền, ông ta ra lệnh. Dĩ nhiên là ông ta cũng hứa hẹn một tương lai tươi sáng, nhưng là tương lai hiện thực đối với tầng lớp quan liêu, để cho tầng lớp ấy hàng ngày hàng giờ cảm thấy sự quan tâm của Stalin đối với sự sung túc trong đời sống và sự ổn định trong vị trí xã hội của họ. Các bài diễn văn của ông ta không thể gọi là có lửa, thực ra phải nói là chán ngắt, nhưng đối với giai cấp mới thì đấy chính là ngôn ngữ của thực tế, gần gũi và dễ hiểu. Trotsky mơ ước nhìn thấy một cuộc cách mạng bao trùm khắp châu Âu và sau đó là toàn thế giới. Stalin không phản đối, nhưng trước khi thực hiện công việc mạo hiểm đó, ông ta phải quan tâm đến nước Nga, đến những người mà ông ta dựa vào để củng cố hệ thống, tạo ra sức mạnh và niềm vinh quang của nhà nước Nga. Trotsky là người của cuộc cách mạng đã trở thành quá vãng, Stalin là người của hôm nay và như vậy cũng có nghĩa là người của ngày mai.
Trotsky coi thắng lợi của Stalin là sự phản bội, là sự xuyên tạc chính quyền Xô-viết và thành quả của cách mạng. Ông cho rằng các biện pháp của Stalin là phi luân chính là vì như thế. Mặc dù Trotsky là người đầu tiên gần như hiểu được bản chất của chủ nghĩa cộng sản hiện đại (dù là không cố ý, dù là với ước mong cứu nó) nhưng phải nhận rằng ông không thể đi đến tận cùng bản chất ấy. Cho rằng đấy chỉ là “sự bùng phát” nhất thời của chủ nghĩa quan liêu chà đạp lên đường lối trong sáng của đảng cách mạng, Trotsky tin có thể giải quyết bằng cách thay đổi ban lãnh đạo, tiến hành “đảo chính cung đình” là được. Nhưng khi cuộc đảo chính ấy diễn ra (sau khi Stalin chết) thì người ta mới hiểu rằng bản chất của hệ thống là không thay đổi. Vấn đề hoá ra là có nguồn gốc sâu xa và căn bản hơn nhiều. Stalin đã để lại không chỉ một chính quyền mới, chuyên chế hơn chính quyền trước đó, mà còn để lại một giai cấp mới. Một trong những khía cạnh của cách mạng, khía cạnh bạo lực vẫn tiếp tục; sự sinh thành và củng cố của giai cấp mới đã trở thành hiện tượng đương nhiên.
Stalin có thể có nhiều lí do hơn cả Trotsky khi tự xưng là người kế tục của Lenin và con đẻ của cách mạng, dù là đứa con thiếu giáo dục.
Lenin là người kiến tạo một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất của mọi thời đại. Stalin là người đã thực hiện một khối lượng công việc cực kì to lớn để thiết lập nên sự thống trị và quyền sở hữu của một giai cấp mới, giai cấp xuất thân từ trong lòng của một trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất, trong một đất nước rộng lớn nhất. Sau Lenin, một người hoàn toàn sống bằng tư tưởng và lòng say mê, trên sân khấu đã xuất hiện nhân vật Stalin, biểu tượng của những bước chân tàn nhẫn, nặng nề của giai cấp mới trong việc chinh phục đỉnh cao quyền lực của nó.
Sau họ, sau Stalin sẽ đến cái điều phải đến cùng với sự trưởng thành của giai cấp mới, đấy là sự tầm thường, đấy là lãnh đạo tập thể và một người chân thật, hiền lành, một người “từ nhân dân” mà ra - đấy là Nikita Khrushchev. Giai cấp mới đã không còn cần những nhà cách mạng hay những kẻ giáo điều nữa. Giai cấp mới có thể chấp nhận những con người “đơn giản” như kiểu Khrushchev, Malenkov, Bulganin hay Shepilov, họ chính là đại diện trung bình của giai cấp đó. Chính giai cấp mới cũng đã mệt mỏi với những cuộc thanh trừng và cải tạo bất tận rồi. Sau khi đã ổn định vị trí, giai cấp mới cần phải tránh ngay cả mối nguy hiểm xuất phát từ chính lãnh tụ của mình. Đấy là do giai cấp đã thay đổi, còn Stalin thì vẫn như cũ, giống như thời giai cấp còn non nớt, những người giao động và những kẻ bị nghi là sẽ giao động đều bị trừng phạt cả. Chính cá nhân Stalin cũng như lí luận về “sự khốc liệt của cuộc đấu tranh giai cấp” sau khi “chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi” cũng là điều kiện cần của việc hình thành giai cấp mới. Nhưng bây giờ điều đó đã trở thành thừa. Giai cấp mới không hề phủ nhận những di sản do triều đại Stalin để lại, nó chỉ phê phán thói lộng hành trong những năm cuối đời của ông ta, thực ra cũng không phải hoàn toàn như vậy, nó chỉ phủ nhận những biện pháp đụng chạm đến chính giai cấp, hay nói như Khrushchev là “đụng chạm đến những người cộng sản tốt” mà thôi.
Thời đại cách của Lenin được thay bằng thời đại củng cố quyền lực và quyền sở hữu hay thời đại công nghiệp hoá vì cuộc sống ấm nó, hạnh phúc của giai cấp mới do Stalin lãnh đạo. Chủ nghĩa cộng sản cách mạng của Lenin được thay bằng chủ nghĩa cộng sản giáo điều Stalin và đến lượt nó, lại được thay bằng sự lãnh đạo tập thể, nghĩa là quyền lãnh đạo nằm trong tay một nhóm đầu sỏ.
Đấy là ba giai đoạn phát triển giai cấp mới ở Liên Xô, ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa cộng sản Nga. Về nguyên tắc đấy cũng là những giai đoạn phát triển của mọi chế độ cộng sản khác.
Chủ nghĩa cộng sản Nam Tư cũng có đầy đủ đặc trưng của ba giai đoạn như đã nói ở trên, nhưng lại quyện chặt với vấn đề dân tộc và cá nhân, tập trung vào một con người, đấy là Tito. Là một nhà cách mạng vĩ đại (nhưng thiếu tư tưởng độc đáo), một kẻ tiếm quyền (nhưng không có biểu hiện ngờ vực bệnh hoạn và giáo điều kiểu Stalin), giống như Khrushchev, ông cũng là đại diện của “nhân dân”, nghĩa là tầng lớp cán bộ trung cấp của đảng. Chính ông là người luôn luôn bảo vệ một cách nhất quán (nếu so với những người khác) chủ nghĩa Mác nhưng hành động lại chỉ vì lợi ích (chỉ cần thấp thoáng bóng dáng lợi ích thôi cũng đủ); ông chính là tấm gương phản chiếu toàn bộ con đường của chủ nghĩa cộng sản: cách mạng, rập khuôn chủ nghĩa Stalin và cuối cùng là từ bỏ nó để tìm diện mạo riêng.
Ba giai đoạn phát triển của giai cấp mới – Lenin, Stalin, “lãnh đạo tập thể’ – là không tách rời nhau cả về nội dung và tư tưởng. Lenin đã là người giáo điều, còn Stalin đã là nhà cách mạng, theo cách của mình, cũng như “ban lãnh đạo tập thể”, trong trường hợp cần thiết, có thể sử dụng một cách hữu hiệu cả những phương pháp cách mạng cũng như phương pháp giáo điều. Hơn thế nữa, ban lãnh đạp tập thể chỉ không chấp nhận phương pháp giáo điều khi nó đụng chạm quyền lợi của nhóm chóp bu của giai cấp mới mà thôi. Đồng thời nó lại kiên quyết hơn trong việc “giáo dục” quần chúng”, tích cực nhồi sọ giáo điều mac-xit - lenin-nít cho họ. Giai cấp mới sau khi nắm được sức mạnh kinh tế đã tỏ ra mềm dẻo hơn, đã không còn khốc liệt và độc đoán như xưa.
Giai đoạn anh hùng của chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung.
Thời đại của các lãnh tụ vĩ đại đã cáo chung.
Bắt đầu giai đoạn của những kẻ thực dụng. Đấy là giai cấp mới. Giai cấp ấy đang đứng trên đỉnh cao của quyền lực và tài sản, nhưng thiếu tư tưởng. Giai cấp ấy không có gì để phát biểu nữa. Chỉ còn một việc là xem xét thực chất chính cái giai cấp đó.
----------------
Chú thích
[1]R. Dabin, Quan hệ giữa người với người trong môi trường hành chính, New York 1951, trang 165-166.
[2]A. Uralov, Khi Stalin nắm quyền, Paris.1951, trang 202, 215.
5.
Nếu những người cộng-sản-chống-Stalin, trong đó có Trotsky và một số nhà dân chủ xã hội khác không coi tầng lớp lãnh đạo cộng sản như là một hiện tượng “song hành”, bản chất là quan liêu, là một căn bệnh trong thời kì phát triển của một xã hội lí tưởng, xã hội phi giai cấp, tương tự như xã hội tư bản đã từng trải qua dưới thời Cromwell hay Napoleon, thì có lẽ việc chứng minh rằng chủ nghĩa cộng sản hiện đại không phải là chế độ chuyên chế sớm nở tối tàn và sự độc đoán của chế độ quan liêu đó chỉ là tạm thời, mà là một giai cấp bóc lột mới, sẽ chẳng phải là một việc có ý nghĩa lắm.
Chúng tôi đã nhấn mạnh rằng chúng ta đang nói về một giai cấp mới. Nghĩa là ta đang nói về một hiện tượng ổn vững và có nguồn gốc sâu xa. Và sự kiện đấy là một giai cấp mới, giai cấp đặc biệt, với hình thức sở hữu và cầm quyền đặc biệt không có nghĩa là nó không phải là một giai cấp. Ngược lại.
Dù sử dụng bất cứ định nghĩa nào về giai cấp, kể các định nghĩa mac-xít nữa, ta đều đi đến kết luận: tại Liên Xô và các nước cộng sản khác đã xuất hiện một giai cấp mới, giai cấp hữu sản và bóc lột. Dĩ nhiên là tôi không khắng định rằng giai cấp này hoàn toàn tương đồng với những giai cấp hữu sản khác trong quá khứ. Tôi chỉ khẳng định rằng vấn đề không phải là sự lên ngôi tạm thời của các đầu lĩnh quan liêu đã giành được quyền lực do những hoàn cảnh ngẫu nhiên của cách mạng.
Đặc trưng cơ bản của giai cấp mới chính là quyền sở hữu tập thể.
Các lí thuyết gia cộng sản khẳng định rằng (hiện nay họ tin là như thế) chủ nghĩa cộng sản phát minh ra sở hữu tập thể.
Sở hữu tập thể dưới những hình thức khác nhau đã từng tồn tại trong những hình thái xã hội trước đây. Các chế độ chuyên chế phương Đông tồn tại dựa trên cơ sở sở hữu nhà nước, nghĩa là sở hữu của chính nhà vua. Đất canh tác chỉ trở thành sở hữu tư nhân tại Ai Cập kể từ thế kỉ thứ XV trước công nguyên, trước đó tư nhân chỉ có quyền sở hữu nhà và vườn: đất công được cho thuê, các viên chức nhà nước thu tô và quản lí. Hệ thống tưới tiêu và những công trình khác đều là tài sản nhà nước. Tài sản nhà nước giữ vai trò chủ đạo cho đến tận khi nước này mất độc lập vào thế kỉ thứ nhất trước công nguyên.
Nếu quên những sự kiện đó ta sẽ không thể nào hiểu được sự thần thánh hoá các Pharaoh Ai Cập hay các vua chúa phương Đông cổ đại, ta cũng không thể nào hiểu được tại sao người ta lại có thể xây dựng được những đền chùa, lăng tẩm, cung điện, kênh đào, đường xá, thành quách vĩ đại đến như vậy.
La Mã cổ đại cũng coi những vùng đất mới chiếm được là tài sản nhà nước và nhà nước cũng sở hữu rất nhiều nô lệ. Nhà thờ trung cổ cũng sở hữu rất nhiều tài sản tập thể.
Chỉ có chủ nghĩa tư bản là chống lại sở hữu tập thể (bản chất của nó là như thế). Nhưng đấy là nói trước khi có các công ty cổ phần. Chủ nghĩa tư bản tuy không hào hứng nhưng cũng không thể chống lại được hình thức sở hữu này.
Cái mới mà những người cộng sản đem lại không phải là tính chất tập thể, mà là sự bao trùm toàn bộ của hình thức sở hữu này. Sở hữu của giai cấp mới bao trùm lên toàn bộ, khác hẳn với các giai đoạn trước, kể cả thời kì của các Pharaoh.
Tất cả chỉ có thế.
Tài sản của giai cấp mới cũng như đặc điểm của nó không phải xuất hiện ngay lập tức mà hình thành trong một quá trình lâu dài kèm theo những biến động không ngừng. Ban đầu chính dân tộc, đúng hơn là một bộ phận của dân tộc, cảm thấy có nhu cầu (nhân danh cải tạo công nghiệp) chuyển toàn bộ tiềm năng kinh tế vào tay một đảng chính trị. Đảng, “đội quân tiên phong của giai cấp vô sản” tìm mọi cách cổ vũ cho sự tập trung đó, một sự tập trung chỉ có thể xảy ra cùng với việc thay đổi chính quan hệ sở hữu. Sự thay đổi như vậy quả thật đã diễn ra, ban đầu là việc quốc hữu hoá các xí nghiệp lớn, rồi sau đó cả các xí nghiệp nhỏ nữa. Loại bỏ sở hữu tư nhân là điều kiện của tiến trình công nghiệp hoá và sự xuất hiện giai cấp mới. Nếu không giành được vai trò đặc biệt, vai trò cai quản xã hội và tài sản quốc gia, những người cộng sản không thể biến thành giai cấp mới. Tài sản về mặt hình thức đã trở thành sở hữu toàn dân, nhưng trong thực tế, thông qua quyền quản lí, sử dụng và phân phối, đã trở thành tài sản của một tầng lớp của đảng và bộ máy quan liêu châu tuần xung quanh tầng lớp đó.
Quá trình này xảy ra tương đối chậm và đấy chính là mảnh đất màu mỡ cho ảo tưởng rằng trong chế độ cộng sản toàn thể xã hội chứ không phải một giai cấp đã nắm trọn quyền sở hữu tài sản.
Nhận thức được rằng tài sản có thể củng cố được quyền lực và mang lại nhiều đặc lợi, bộ máy quan liêu của đảng không thể không thò bàn tay thâu tóm cả các ngành sản xuất nhỏ. Hơn nữa vì bản chất là toàn trị và độc quyền, thù địch với mọi hình thức sở hữu mà nó không quản lí được, giai cấp mới tìm mọi cách tiêu diệt hoặc chiếm hữu các hình thức sở hữu đó.
Trước khi tiến hành tập thể hoá, Stalin tuyên bố rằng vấn đề là “ai thắng ai?” mặc dù giai cấp nông dân, vốn phân tán cả về kinh tế và chính trị, không thể tạo ra bất cứ mối nguy hiểm nào đối với chính quyền Xô Viết. Nhưng giai cấp mới không thể yên tâm khi còn những chủ sở hữu khác: lỡ xảy ra phá hoại trong nông nghiệp hay cung cấp nguyên liệu thì sao! Đấy là nguyên nhân chủ yếu của việc đàn áp nông dân. Nhưng còn một lí do nữa, lí do giai cấp: khi tình hình không ổn định, nông dân có thể làm lung lay địa vị của giai cấp mới. Giai cấp mới phải sử dụng các hợp tác xã như là biện pháp hành chính và kinh tế để buộc tầng lớp nông dân khuất phục mình. Đấy cũng là đòi hỏi của giai cấp mới đang hình thành ở nông thôn, nơi bọn quan liêu cũng sinh sôi và phát triển với một tốc độ không thể nào tưởng tượng nổi.
Mặc dù sự tước đoạt sở hữu, nhất là của các chủ sở hữu nhỏ, thường tạo ra hỗn loạn về kinh tế và kìm hãm sản xuất, nhưng điều đó không làm giai cấp mới bận tâm. Giống như mọi chủ sở hữu khác trong lịch sử, giai cấp mới chỉ quan tâm giành giật thật nhiều tài sản và củng cố địa vị của mình. Dân tộc dù có bị thua nhưng quyền sở hữu vẫn tiếp tục đảm bảo cho giai cấp mới đặc quyền đặc lợi, nghĩa là họ thắng, là được. Tập thể hoá nông thôn là biện pháp cần thiết để giai cấp mới khẳng định sức mạnh và quyền sở hữu của nó.
Tuy không có số liệu cụ thể nhưng ta cũng không thể nói rằng năng suất cây trồng ở Liên Xô cao hơn thời Sa Hoàng. Ta biết rằng năng suất là thấp và các nhà kinh tế Nam Tư tính ra rằng (dĩ nhiên là trong giai đoạn mâu thuẫn với Liên Xô) ngay trên những cánh đồng màu mỡ của Ukraine năng suất cũng không được 1 tấn một hecta. Số lượng gia súc và gia cầm trong giai đoạn hợp tác hoá cũng giảm hơn 50%, và cho đến nay vẫn chưa đạt mức như thời nước Nga Sa Hoàng lạc hậu.
Nhưng nếu số thiệt hại này là có thể tính đếm được thì thiệt hại về người, hàng triệu nông dân bị đẩy vào các trại lao động, là không thể đo đếm được. Tập thể hoá tràn qua như một cuộc chiến tranh huỷ diệt, giống như một cơn điên, không thể nào xảy ra được, nếu như nó không có lợi cho giai cấp mới, không đảm bảo cho giai cấp này quyền bá chủ xã hội.
Người ta đã tiến hành tiêu diệt hoặc “tập thể hoá” (biến thành sở hữu của giai cấp mới) sở hữu tư nhân bằng đủ mọi cách có thể tưởng tượng được: quốc hữu hoá, tập thể hoá cưỡng bức, thuế cao, chèn ép khi tham gia thị trường. Dù người chủ cũ có sử dụng ít lao động hơn, dù việc tước đoạt sở hữu không giải quyết được các vấn đề kinh tế, thì đấy cũng không phải là vấn đề mà giai cấp mới quan tâm.
Sự xuất hiện giai cấp mới và tài sản của nó không thể không ảnh hưởng đến tâm lí và cách sống của những người đã nằm trong giai cấp ấy. Họ chiếm đoạt hết: nhà nghỉ, các căn hộ đẹp, đồ gỗ, v.v...Tầng lớp quan chức chóp bu, giới tinh hoa của giai cấp mới, sống trong các khu đặc biệt, nghỉ trong những khu vực an dưỡng riêng. Bí thư đảng uỷ và giám đốc cảnh sát mật trở thành không chỉ những người có quyền tối thượng mà còn sở hữu những căn hộ đẹp nhất, những chiếc ô tô xịn nhất, v.v... Sau họ là những người khác, theo nấc thang quyền lực. Tiền ngân sách, “tặng phẩm”, việc xây dựng và tái trang bị, tất cả dường như là do nhu cầu của nhà nước và cơ quan, nhưng thực ra đây chính là nguồn tài sản vô tận, vĩnh cửu dành riêng cho các quan chức của bộ máy chính trị.
Chỉ khi nào giai cấp mới không thể “giải quyết” được với số tài sản mà nó cướp được hoặc số tài sản đó đã trở thành gánh nặng và nguy hiểm về chính trị, thì nó mới chịu nhường cho những giai tầng khác, nghĩa là chấp nhận các hình thức sở hữu khác. Đấy là trường hợp giải tán hợp tác xã ở Nam Tư: bị nông dân chống đối, sản lượng giảm liên tục chính là mối nguy tiềm ẩn đối với chế độ. Nhưng giai cấp mới, chưa ở đâu và chưa bao giờ, tuyên bố rằng nó từ bỏ quyền sở hữu đó và không tái hợp tác hoá khi có điều kiện. Vâng, giai cấp mới không thể từ bỏ, cũng như nó không thể khác cái nó đang là: một giai cấp toàn trị và độc đoán, chuyên quyền về bản chất.
Chưa có một bộ máy quan liêu nào từng theo đuổi mục đích của mình với sự kiên định đến như thế. Chỉ có các ông chủ, với những hình thức sở hữu mới, đang dọn đường cho những hình thức sản xuất mới, mới có thể thể hiện sự kiên trì và kiên định đến như thế.
Marx tiên đoán rằng sau khi giành được thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ gặp hai mối nguy, đấy là các giai cấp đã bị lật đổ, và bộ máy quan liêu của chính mình. Khi những người cộng sản, đặc biệt là cộng sản Nam Tư, phê phán chế độ của Stalin và chủ nghĩa quan liêu, họ đã dựa vào tư tưởng này của Marx. Nhưng những điều xảy ra hôm nay trong chế độ cộng sản và giả định của Marx mà ta đang nói tới có rất ít điểm chung. Marx đã tiên đoán khả năng sinh sôi nảy nở của bộ máy quan liêu ăn bám (điều đang diễn ra trong các chế độ cộng sản), nhưng ông không thể nào ngờ được rằng những người cầm quyền cộng sản lại có thể sử dụng tài sản không phải vì quyền lợi của toàn bộ bộ máy quan liêu nói chung mà chỉ vì quyền lợi của một nhóm chóp bu nắm quyền. Cho nên trong trường trường hợp này Marx chỉ là cái cớ để phê phán sự tham lam vô độ của một giai tầng riêng biệt của giai cấp mới mà thôi.
Như vậy vấn đề không phải chỉ là sự quan liêu độc đoán, thoái hoá, biến chất và ăn bám, dù chế độ cộng sản, hơn bất cứ chế độ nào khác, đầy dẫy các hiện tượng đó mà là việc những người cộng sản giành quyền quản lí và phân phối toàn bộ tài sản quốc gia, chính ở đây họ đã tự thể hiện là hạt nhân của giai cấp mới, giai cấp hữu sản và đấy cũng là cơ sở của chế độ toàn trị của họ.
Chủ nghĩa cộng sản hiện đại không chỉ là đảng kiểu mới, không chỉ là chế độ quan liêu dựa trên sở hữu độc quyền và sự can thiệp quá mức của nhà nước vào các hoạt động kinh tế. Chủ nghĩa cộng sản hiện đại trước hết là tư tưởng giai cấp của những kẻ hữu sản và bóc lột kiểu mới.
6.
Không có một giai cấp nào xuất hiện nhờ vào những hành động hữu thức dù sự hưng thịnh của từng giai cấp bao giờ cũng đi kèm với cuộc đấu tranh có ý thức và có tổ chức. Giai cấp mới cũng không ngoài thông lệ đó. Nhưng giai cấp mới cũng có một số đặc thù.
Do sự bấp bênh về vị trí xã hội và kinh tế, cũng như xuất thân từ một đảng chính trị, giai cấp mới buộc phải cực kì cố kết, luôn luôn hành động một cách có ý thức và với một kế hoạch thật rõ ràng. Như vậy là giai cấp mới có tổ chức và có ý thức hơn bất kì giai cấp nào trước đó.
Kết luận này là chính xác nếu nói về nhận thức và ý thức tổ chức trong quan hệ với thế giới bên ngoài, với các đảng phái, các giai cấp và lực lượng xã hội khác. Không có một giai cấp nào trong lịch sử từng thể hiện sự đoàn kết thống nhất trong việc tranh đoạt và bảo vệ độc quyền sở hữu tài sản và chế độ toàn trị của mình đến như thế.
Mặc dù vậy, giai cấp mới, vốn bị è cổ dưới gánh nặng của sự tự huyễn, lại là giai cấp có nhận thức về mình kém nhất, mà cụ thể là không nhận rằng nó là một giai cấp, dù là giai cấp với những đặc điểm hoàn toàn mới mẻ. Tất cả các chủ tư sản hay chúa đất đều tự nhận thức được rằng họ thuộc vào một thành phần xã hội nhất định và tin tưởng rằng thành phần xã hội này có trách nhiệm đưa nhân loại đến bến bờ hạnh phúc, không có họ thế giới sẽ rơi vào cảnh hỗn loạn và diệt vong. Người cộng sản, như một thành viên của giai cấp mới, cũng tin rằng không có đảng của anh ta xã hội sẽ thụt lùi và tiêu vong.
Đồng thời người đảng viên cộng sản không nhận thức được rằng mình thuộc về giai cấp hữu sản dù anh ta có nhận được bao nhiêu đặc quyền đặc lợi từ chính khối tài sản đó thì cũng vậy mà thôi. Đúng là chỉ cần tách khỏi giai cấp đó là mọi đặc quyền đặc lợi đều biến mất ngay lập tức. Dĩ nhiên là anh ta hiểu rằng mình chia sẻ với nhóm những tư tưởng, mục đích, tâm trạng và vai trò nhất định. Và chỉ thế thôi. Anh ta không thể nào nhận thức được rằng mình thuộc về một giai tầng xã hội nhất định, thuộc về giai cấp hữu sản.
Sở hữu tập thể có tác dụng cố kết giai cấp nhưng đồng thời cũng là vật cản không cho người ta nhận ra bản chất giai cấp của mình: những người được chọn đều nghĩ rằng mình đang tham gia vào một phong trào với mục đích tiêu diệt xã hội có giai cấp.
So sánh giai cấp mới với các giai cấp khác cho ta thấy nhiều tương đồng cũng như tương dị.
Giai cấp mới cũng tham lam, giống như giai cấp tư sản thời kì đầu, nhưng lại không cần cù và tiết kiệm như các nhà tư sản. Nó là một tổ chức cố kết và khép kín, giống như giai cấp quí tộc, nhưng lại thiếu tâm hồn tinh tế và phẩm chất của người hiệp sĩ.
Nhưng tính ưu việt của giai cấp mới cũng không phải là ít.
Là một tổ chức cực kì cố kết, nó luôn sẵn sàng hi sinh và sẵn sàng cho những chiến công. Từng “nguyên tử” của mỗi “chiến binh” của nó cũng thuộc về toàn thể đội ngũ, ít nhất về lí thuyết người ta đã nghĩ như thế. Cá nhân biến mất hoàn toàn, nhưng lòng trung thành với tổ chức thì lại cao vòi vọi. Chưa từng có giai cấp nào trong quá khứ có nhiều quyền lực như thế: nắm toàn bộ tài sản quốc gia, nó có thể huy động sức mạnh tinh thần của chính mình và lực lượng của toàn dân để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng sống còn.
Quyền sở hữu mới không phải là quyền lực chính trị nhưng nhờ quyền lực chính trị mà đảng và bộ phận đầu não của đảng có toàn quyền sở hữu, quyền sử dụng và quản lí khối tài sản đó.
Quyền lực, nghĩa là quyền phân phối tài sản quốc gia, sẽ tạo ra cho những kẻ có quyền đó các ưu đãi về vật chất nhất định sẽ kéo theo thói ham hố quyền lực, giả dối, ninh bợ, ghen tị. Tham quyền và chủ nghĩa quan liêu ngày càng phát triển là hai căn bệnh nan y của chủ nghĩa cộng sản. Chính vì những người cộng sản đã thoái hoá thành giai cấp hữu sản (chỉ có một con đường duy nhất để chiếm được quyền lực và quyền lợi, đấy là trung thành với đảng, với giai cấp và chủ nghĩa xã hội) cho nên “việc bước qua xác chết” đồng đội đã là một trong những đặc điểm của lối sống, là điều kiện tiên quyết trên con đường hoạn lộ của chủ nghĩa cộng sản.
Một người thuộc giai cấp nào đó không có nghĩa rằng người đó đã có một khối tài sản nhất định. Điều đó càng đúng đối với chế độ cộng sản: sở hữu mang tính tập thể. Ở đây muốn trở thành chủ sở hũu hay đồng sở hữu cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy quan liêu chính trị. Chỉ thế thôi, không cần hơn.
Giống như mọi nơi khác, vị trí của kẻ thất sủng được người khác chiếm ngay. Nhưng trong các giai cấp hữu sản quyền tư hữu đối với tài sản sở hữu được thừa kế. Trong chủ nghĩa cộng sản không ai có quyền thừa kế, mỗi người phải tự chen bằng được vào hàng ngũ những kẻ được lựa chọn. Giai cấp mới được hình thành từ những người đại diện của giai tầng hạ lưu nhất, đông đảo nhất trong xã hội, nó luôn luôn chao đảo không khác gì sóng biển. Như đã nói ở trên, về mặt xã hội học ta có thể xác định được thành phần của giai cấp mới, nhưng trên thực tế việc đó khó hơn rất nhiều vì nó luôn luôn biến động, có kẻ từ nhân dân thành “quan nhất thời” thì lại có kẻ trở về làm “dân vạn đại”.
Về mặt lí thuyết thì mọi người đều có thể leo lên. Giống như những người lính của Napoleon trước đây, họ cũng từng đeo sau lưng trượng nguyên soái, nhưng số thực sự được cầm nó chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Ở đây mỗi người chỉ cần một phẩm chất, đấy là lòng trung thành tuyệt đối đối với đảng (thực ra là với giai cấp). Nhưng đấy lại chính là điều khó khăn nhất. Giai cấp mới giống như một hình kim tự tháp: đáy to, càng lên trên càng hẹp dần. Để đi lên, chỉ ý chí không chưa đủ, còn cần phải hiểu và “vận dụng lí luận” nữa, cần phải quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kì khôn khéo khi xảy ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp nữa. Nhiều người có thể bước vào nhưng những kẻ đến đích thì tương đối hiếm. Nếu so sánh với các giai cấp hữu sản khác thì giai cấp mới vừa rộng mở hơn vừa khó đạt đến hơn. Vì một trong những đặc trưng của nó là độc chiếm quyền lực, các thành kiến của bộ máy quan liêu nhiều tầng nấc chỉ làm cho việc leo lên khó khăn hơn mà thôi.
Chưa ở đâu và chưa bao giờ cánh cửa lại rộng mở như thế đối với những kẻ trung thành, nhưng cũng chưa ở đâu con đường danh vọng lại khó khăn và đòi hỏi nhiều nạn nhân và sự hi sinh to lớn đến như vậy. Chế độ cộng sản, một mặt mở rộng cửa chào đón tất cả, nhưng mặt khác nó lại là chỗ khó vào và bất dung với cả những môn đồ của chính mình.
7.
Nói rằng trong các nước cộng sản đã xuất hiện một giai cấp mới, tuy chưa làm cho vấn đề trở nên hoàn toàn rõ ràng nhưng cũng tạo cơ sở để cho ta tìm hiểu những thay đổi theo chu kì trong những nước này, mà trước hết là ở Liên Xô. Dĩ nhiên mọi sự thay đổi, trong từng nước hay trong cả khối cộng sản đều phải được nghiên cứu: vùng ảnh hưởng và ý nghĩa của nó trong những hoàn cảnh cụ thể. Nhưng để làm điều đó phải có khái niệm chung về cả hệ thống.
Liên quan đến những thay đổi hiện nay ở Liên Xô, thiết nghĩ sẽ không thừa khi tìm hiểu những chuyện đang diễn ra với các hợp tác xã nông nghiệp. Hơn nữa việc thành lập hợp tác xã và chính sách của chính quyền Xô Viết thể hiện rõ bản chất bóc lột của giai cấp mới.
Stalin trước đây cũng như Khrushchev hiện nay đều coi hợp tác xã chưa phải là hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa, thực ra điều đó chỉ có nghĩa là giai cấp mới chưa giành được địa vị bá chủ ở nông thôn. Sự thật là như thế. Thông qua các hợp tác xã, nó mới chỉ nô dịch được nông dân và giành được một phần khá lớn thu nhập của họ (bằng cách buộc phải bán cho nhà nước), nhưng chưa trở thành người chủ sở hữu đất đai duy nhất. Stalin hiểu rõ điều đó và trước khi chết (trong bài báo Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô) đã dự trù việc biến các hợp tác xã thành tài sản nhà nước, hay nói một cách khác, đã chuẩn bị điều kiện cần thiết cho việc biến bộ máy quan liêu thành chủ nhân ông thật sự. Mặc dù chỉ trích Stalin vì những sai lầm trong các vụ thanh trừng nhưng Khrushchev lại giữ nguyên quan điểm của Stalin về vấn đề hợp tác xã, hơn nữa còn biến nó thành hiện thực bằng cách gửi về nông thôn 30 ngàn cán bộ đảng, phần lớn những người này đều giữ chức chủ tịch nông trang.
Chế độ mới tuy thực hiện cái gọi là dân chủ hoá, nhưng giống như thời còn Stalin, họ càng ngày càng chiếm thêm nhiều “tài sản xã hội chủ nghĩa” hơn. Phi tập trung hoá trong kinh tế không phải là phân phối lại sở hữu mà chỉ là tăng quyền phân phối tài sản cho các tầng lớp quan liêu cấp thấp hơn, cấp nước cộng hoà, tỉnh, huyện. Nếu cái gọi là dân chủ hoá và phi tập trung hoá được tiến hành khác đi thì sẽ đụng chạm đến vấn đề chính trị, sẽ cho phép, nếu như không phải toàn dân thì cũng là một bộ phận dân chúng được có tiếng nói trong quá trình phân phối sản phẩm hoặc ít nhất cũng có thể thể hiện thái độ phê phán đối với tầng lớp chóp bu. Trên thực tế điều đó nhất định sẽ dẫn tới việc xuất hiện các phong trào chính trị, phong trào đối lập, dù vẫn trung thành với đường lối chính. Việc đó đã không diễn ra. Cũng như đã không diễn ra quá trình dân chủ hoá đảng. Dân chủ hoá và phi tập trung hoá chỉ dành cho những người cộng sản: trước hết là dành cho tầng lớp chóp bu, sau đó thì đến các tầng lớp dưới. Một phương pháp mới, phương pháp phù hợp với những điều kiện đã thay đổi nhằm tăng cường hơn nữa độc quyền sở hữu tài sản và củng cố quyền thống trị toàn trị của giai cấp mới.
Sự xuất hiện trong những nước cộng sản một giai cấp độc-quyền-toàn-trị-hữu-sản cho ta kết luận: những thay đổi được thực hiện theo sáng kiến của những người cộng sản thực chất là vì quyền lợi và “theo đơn đặt hàng” của chính giai cấp mới. Điều đó không có nghĩa là có thể bỏ qua không xem xét các thay đổi đó. Cần phải tìm hiểu thực chất các thay đổi và sau đó xác định ý nghĩa và hậu quả của chúng.
Giống như mọi giai tầng xã hội khác, giai cấp mới luôn luôn tồn tại, phản ứng với các tác nhân bên ngoài, chống đỡ và tiến lên để trở thành ngày một mạnh hơn. Điều đó không có nghĩa là các thay đổi này không ảnh hưởng đến thế giới bên ngoài hoặc không đụng chạm đến tận căn để chính giai cấp đó. Nhưng hiện tại các thay đổi đó chưa thể làm lung lay chứ đừng nói biến cải được hệ thống cộng sản.
Giống như mọi chế độ khác, chế độ cộng sản cũng phải tính đến những thay đổi và tâm lí của quần chúng. Do tính biệt lập của mình và do không được tự do phát biểu ý kiến, đảng cộng sản không nắm được tâm trạng của dân chúng. Nhưng lãnh đạo nhất định phải thấy sự bất bình của quần chúng. Mặc dù có một chính quyền toàn trị, về nguyên tắc giai cấp mới không có khả năng miễn dịch đối với phong trào đối lập.
Sau khi nắm được chính quyền, những người cộng sản đã dễ dàng đè bẹp được giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản: hướng cuộc đấu tranh của quần chúng chống lại những lực lượng này không phải là việc khó. Tịch thu tài sản của họ cũng không khó. Khó khăn chỉ xuất hiện khi tiến hành tịch thu tài sản của các tiểu chủ. Dù quần chúng đã đấu tranh nhưng ở đây những người cộng sản cũng thắng. Xã hội trở lại như xưa: các giai cấp cũ, các ông chủ cũ đã không còn, chỉ còn xã hội “phi giai cấp”, hay đang trên đường tiến đến đó, nhưng con người thì bắt đầu sống theo cách khác.
Đòi hỏi trở về với những quan hệ cũ, quan hệ trước cách mạng là không thực tế (nếu không nói là khôi hài) vì các quan hệ cũ đã không còn cơ sở, cả về vật chất lẫn xã hội nữa rồi. Những người cộng sản thanh toán dễ dàng các đòi hỏi kiểu này.
Nhưng giai cấp mới sẽ cảm thấy khó chịu khi phải đối mặt với những đòi hỏi về tự do. Không phải tự do nói chung và cũng không chỉ tự do về chính trị. Giai cấp mới không phản ứng dữ dội đối với những đòi hỏi trở về với những quan hệ xã hội hay quan hệ sở hữu cũ, nó tỏ ra thù địch nhất đối với những đòi hỏi về tự do tư tưởng, tự do phê bình, dù chỉ là trong khuôn khổ của các quan hệ mới, trong khuôn khổ của “chủ nghĩa xã hội”. Có sự nhạy cảm như vậy là do tính chất đặc biệt của giai cấp mới.
Tự bản năng giai cấp này nhận thức được rằng toàn bộ tài sản quốc gia thực ra đã là của nó, còn những nhãn hiệu như “tài sản xã hội chủ nghĩa”, “tài sản nhà nước”, “tài sản xã hội” chỉ là những khái niệm giả tạo về mặt pháp lí. Nó cũng nhận thức được rằng nếu tính toàn trị của nó bị phương hại thì tài sản của nó cũng bị đe doạ. Chính vì thế nó chống lại mọi đòi hỏi về tự do: nhân danh bảo vệ “tài sản xã hội chủ nghĩa”. Và ngược lại, những lời phê phán phương pháp quản lí (độc quyền) cũng làm nó hoảng loạn: nó sợ mất chính quyền. Giai cấp mới càng phản ứng với những đòi hỏi và phê phán thì người ta càng dễ nhận ra bản chất của nó, bản chất của giai cấp hữu sản và tham quyền.
Ta có thể nói đến một mâu thuẫn lớn, có thể là lớn nhất của giai cấp mới. Cụ thể là: sở hữu dường như là của xã hội, của cả nước, nhưng lại bị một nhóm sử dụng cho quyền lợi của mình. Sự bất tương hợp giữa quan hệ pháp lí và thực tế không chỉ làm cho vấn đề trở nên mù mờ mà còn dẫn đến việc nói một đằng làm một nẻo (đừng nghe nó nói, hãy xem nó làm – ND) của tầng lớp lãnh đạo, vì tất cả những biện pháp mà họ thi hành cuối cùng đều chỉ nhằm mục đích củng cố vị trí chính trị và quan hệ sở hữu của chính mình.
Giai cấp mới không thể nào giải quyết được mâu thuẫn đó, giải quyết nó cũng đồng nghĩa với việc vị trí của họ bị đe doạ vậy.
Các giai cấp hữu sản trong quá khứ không nắm độc quyền về quyền lực và sở hữu, họ chỉ giải quyết mâu thuẫn này với mức độ phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Nói cách khác ở đâu có tự do thì ở đó giai cấp hữu sản buộc phải từ bỏ một phần độc quyền của mình đối với sở hữu tài sản. Và ngược lại: ở đâu độc quyền sở hữu tài sản không còn thì dù ít dù nhiều, tự do nhất định sẽ tới.
Trong chế độ cộng sản, cả quyền lực và sở hữu đều nằm trọn trong tay một nhóm người. Điều này lại bị thượng tầng pháp luật che đậy. Nếu trong chế độ tư bản người lao động và nhà tư sản bình đẳng trước pháp luật dù về mặt vật chất một người là bị bóc lột, người kia là kẻ bóc lột, thì trong chế độ cộng sản đã xảy ra điều hoàn toàn ngược lại: trong quan hệ sở hữu mọi người đều bình đẳng (tài sản là của toàn dân) nhưng trên thực tế, thông qua độc quyền quản lí, chỉ một nhóm nhỏ có quyền sở hữu tài sản mà thôi.
Đòi hỏi tự do trong chế độ cộng sản chính là mũi kim đâm trúng tim đen của nó, lật tẩy bản chất của nó, là đòi hỏi đưa quan hệ sở hữu phù hợp với luật pháp.
Đòi hỏi tự do và chuyển giao các tài sản lớn do toàn thể nhân dân tạo dựng được vào tay nhân dân và đặt nó dưới sự quản lí của xã hội (thông qua các đại diện được bầu một cách thực sự dân chủ) có nghĩa là buộc giai cấp mới hoặc là nhượng bộ các lực lượng xã hội khác hoặc phải dỡ bỏ cái mặt nạ che đậy bản chất là một giai cấp hữu sản và bóc lột của chính nó. Vì tài sản của giai cấp ấy cũng như sự bóc lột của nó được thực hiện thông qua quyền lực, thông qua sự độc quyền quản lí chính là những khái niệm mà nó phủ nhận. Có phải chính giai cấp ấy vẫn thường nhấn mạnh rằng nó thực hiện vai trò quản lí là để bảo vệ tài sản của toàn xã hội ư?
Mâu thuẫn nói trên tạo ra hàng loạt vấn đề nội bộ của giai cấp mới. Làm cho giai cấp mới có địa vị không xác định về mặt pháp lí. Đẩy giai cấp mới vào bế tắc, càng ngày càng lột trần sự không phù hợp giữa lời nói và việc làm của nó: trong khi hứa hẹn loại bỏ mọi sự phân biệt giữa người với người nhưng bằng việc chiếm đoạt một cách bất công thành quả lao động của người khác, giai cấp mới đang hàng ngày hàng giờ đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người với người. Thực hiện những điều trái ngược hẳn với lí thuyết giáo điều mà nó từng tuyên cáo, giai cấp mới buộc phải bảo vệ đến cùng giáo điều đó như bảo vệ con ngươi của mắt mình, vì giáo điều cung cấp cho dân chúng huyền thoại về vai trò lịch sử của giai cấp mới, một giai cấp có nhiệm vụ giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức và bất công.
Mâu thuẫn giữa vị trí thực tế của giai cấp hữu sản và địa vị pháp lí của nó có thể là lí do chủ yếu cho việc phê phán “có tính khiêu khích” ảnh hưởng đến quần chúng và phá vỡ hàng ngũ của nó, vì chỉ một tầng lớp nhỏ của giai cấp này được hưởng đặc quyền đặc lợi mà thôi.
Mâu thuẫn này sẽ ngày càng lan rộng và phát triển và đấy chính là hi vọng cho những thay đổi thật sự dù tầng lớp nắm quyền trong các chế độ cộng sản đi theo hay chống lại trào lưu thay đổi đó. Mâu thuẫn này đã là lí do của những thay đổi mà giai cấp mới đã tiến hành trong quá khứ, trong đó có việc dân chủ hoá và phi tập trung hoá. Thực hiện từng bước và nhượng bộ đối với các lực lượng xã hội khác là cách làm của giai cấp mới nhằm che đậy mâu thuẫn vừa nói và củng cố địa vị của mình. Nhưng vì tài sản và quyền lực của giai cấp mới vẫn chưa hề bị đụng chạm, mọi biện pháp, kể cả những biện pháp được thực hiện do khát vọng dân chủ hoá, cũng đều thể hiện một xu hướng, đó là tăng cường quyền lực của bộ máy quan liêu của đảng. Hệ thống được thiết kế một cách khéo léo đến nỗi ngay cả các biện pháp dân chủ cũng bị “đúc khuôn” cho vừa với mức cho phép và quay sang phục vụ cho việc tăng cường quyền lực của tầng lớp đương quyền. Tương tự như ở phương Đông cổ đại, nơi chế độ nô lệ ngấm vào mọi quan hệ xã hội kể cả quan hệ gia đình, chế độ chuyên chế toàn trị của tầng lớp đương quyền cộng sản áp đặt sự quản lí của mình lên cả những lĩnh vực mà tầng lớp chóp bu không hề trông thấy bất kì lợi ích nào.
Phong trào tự quản công nhân Nam Tư, được lập ra trong thời kì đối đầu với Liên Xô, đã có lúc được coi là biện pháp dân chủ nhằm kêu gọi đảng từ bỏ độc quyền quản lí, đã biến hoá dần và không những không làm thay đổi hoặc lung lay hệ thống mà đã trở thành một trong những phương hướng hoạt động của tổ chức đảng. Cái điều được trù liệu khi người ta tổ chức phong trào tự quản - tạo ra một hình thức dân chủ mới – đã không và không thể đạt được kết quả mong đợi. Tự do không thể chỉ là được chia miếng bánh to hơn. Phong trào tự quản công nhân không tạo ra sự tham gia của người sản xuất trực tiếp vào quá trình phân phối lợi tức, không chỉ trên bình diện quốc gia mà ngay tại các cơ sở nữa, người ta đã tìm mọi cách ngăn chặn nó trong những giới hạn an toàn. Chế độ đã tìm mọi cách như chính sách thuế khoá và các biện pháp khôn khéo khác để tước đoạt phần lợi nhuận mà người công nhân đã cố gắng tạo ra chỉ với hi vọng rằng nó sẽ là của họ. Ngoài ảo tưởng ra, họ chẳng thu nhập thêm được bao nhiêu. Không có tự do nói chung, phong trào công nhân phải mất tự do là đương nhiên. Trong một xã hội thiếu tự do, không một ai được quyền ra bất cứ quyết định nào. Kẻ ban phát bao giờ cũng hưởng phần hơn.
Điều đó không có nghĩa rằng giai cấp mới, dù chỉ vì lợi ích của chính mình, không thể nhượng bộ quần chúng. Phong trào công nhân tự quản và việc phi tập trung hoá chính là những nhượng bộ đối với quần chúng. Hoàn cảnh có thể buộc giai cấp mới, dù nó có độc đoán chuyên quyền và toàn trị đến đâu, phải tuân theo ý chí của quần chúng. Năm 1948, khi xảy ra đối đầu với Liên Xô, các nhà lãnh đạo Nam Tư đã buộc phải tiến hành một loạt cải cách, nhưng sau này, khi vừa có dấu hiệu nguy hiểm cho địa vị của mình, chính họ đã bãi bỏ những biện pháp cải cách này. Những chuyện tương tự cũng đang diễn ra tại các nước Đông Âu.
Để bảo vệ quyền thống trị của mình, giai cấp cầm quyền buộc phải tiến hành một số cải cách khi quần chúng nhận ra rằng tài sản về danh nghĩa là của toàn dân đã bị giai cấp ấy sử dụng như là tài sản riêng. Những biện pháp được thực hiện thường được mệnh danh là “tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội và dân chủ xã hội chủ nghĩa” nhưng cơ sở của chúng chính là sự bùng nổ những mâu thuẫn nói trên. Giai cấp mới phải luôn luôn tính toán nhằm củng cố quyền lực và quyền sở hữu của mình, đồng thời lẩn tránh sự thật và càng ra sức chứng minh rằng họ đang lãnh đạo thành công sự nghiệp xây dựng xã hội của những con người hạnh phúc và bình đẳng, một xã hội không còn người bóc lột người. Giai cấp mới không thể vượt qua được mâu thuẫn sâu sắc nội tại sau đây: nguồn gốc xuất thân không cho phép nó hợp thức hoá tài sản, nhưng từ bỏ nó thì lại sợ vì làm thế chính là cách tự đào huyệt dưới chân mình. Giai cấp mới buộc phải dùng những mục tiêu phi thực tế và mù mờ hơn để biện hộ cho sự thống trị không giới hạn của mình.
Đây thực sự là giai cấp nô dịch với sức mạnh chưa từng có trong lịch sử. Nhưng đây cũng là giai cấp đoản thọ nhất, tương lai của nó thật là mờ mịt. Vì chứng tự mãn, dẫm đạp lên toàn bộ xã hội, nó không thể nào đánh giá được đúng vai trò của mình cũng như không thể đánh giá đúng những điều đang diễn ra xung quanh.
Thực hiện công nghiệp hoá, giai cấp mới đồng thời đã thực hiện công cuộc chấn hưng dân tộc, ở những chỗ, những lúc mà điều đó nhất định phải chấn hưng, nhưng nay nó đã hết hơi rồi, nó không còn khả năng gì ngoài khả năng đàn áp một cách dã man và cướp bóc một cách vô liêm sỉ. Nó không còn khả năng sáng tạo nữa. Và hậu quả không thể đảo ngược được: vũ khí của nó chỉ còn là sự lừa dối.
Khi tiến hành cách mạng, giai cấp mới đã đã thực hiện được những chiến công vô tiền khoáng hậu, nhưng giai đoạn cầm quyền của nó là một trong những trang nhục nhã nhất trong lịch sử nhân loại. Người ta sẽ lấy làm hân hoan khi nhớ lại những thành tựu đạt được dưới quyền nó, nhưng người ta cũng sẽ phải lấy làm xấu hổ khi nhớ đến những phương tiện mà nó đã sử dụng.
Giai cấp mới nhất định sẽ biến khỏi vũ đài lịch sử, điều đó là rõ ràng. So với các giai cấp khác trong quá khứ việc biến mất của nó sẽ tạo ra ít hoài cảm nhất. Chà đạp lên tất cả những gì không thoả mãn được tính ích kỉ của nó, giai cấp mới tự chuốc lấy cho mình một cái chết nhục nhã và sự thờ ơ của người đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét