Giai cấp mới

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2010

Phạm Phú Hải: Người ở cõi vĩnh hằng đoạt giải Bách Việt



(TT&VH) - Giải thưởng thơ Bách Việt lần thứ 2 năm 2009 trị giá 30 triệu đồng đã được trao cho “người thơ quá cố” Phạm Phú Hải (Quảng Nam) với tập thơ Một hôm núi khóc.





Nhà thơ Phạm Phú Hải (trái) và Bìa tập thơ Một hôm núi khóc của ông

Tôi là người yêu thơ của Phạm Phú Hải dù biết ông có muộn màng. Sau khi ông đi xa, thơ ông được giải thưởng. Âu cũng là một sự đền bù của cuộc đời với ông, còn giá trị của thơ ông chẳng cần phải có một giải thưởng nào, bản thân những bài thơ của ông đã xác định chỗ đứng trong lòng người yêu thơ từ lâu.

Thứ Hai, 25 tháng 1, 2010

Vụ chó dữ cắn chết người và báo Thanh Niên



Đăng ngày: 09:01 25-01-2010


Thư mục: Tổng hợp

Vụ đàn chó dữ của tên Phạm Ngọc Thành cắn chết bà Phạm Thị Ngắn, một người dân nghèo đi mót hạt cafe đang gây ra một làn sóng sôi sục phẫn nộ trong xã hội thì hôm nay báo Thanh Niên đưa lên một bài với cái tựa cực kỳ phản cảm:


Tờ báo Thanh Niên làm tôi thất vọng, cách đặt vấn đề như thế hàm ý gì?

Ăn mày dĩ vãng

VietNamnet
Cập nhật lúc 23:17, Chủ Nhật, 24/01/2010 (GMT+7)

Bí thư các tỉnh Quảng Ninh, Lâm Đồng và Thừa Thiên - Huế được tuyên dương tại Hội nghị biểu dương các điển hình tiên tiến toàn quốc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, diễn ra tối nay (24/1) ở Hà Nội.
“Các ông: Nguyễn Duy Hưng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh; Huỳnh Phong Tranh, Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng; Hồ Xuân Mãn, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế nằm trong số 144 cá nhân điển hình toàn quốc sau ba năm triển khai cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2010

Những câu thơ trong trí nhớ



Hôm qua đọc tin đàn chó của một tên trọc phú tư bản đỏ cắn chết một một phụ nữ đi mót hạt café. Đọc rồi rùng mình, phẫn nộ. Khi những cảm xúc ấy lắng xuống thì xót xa thương cảm cho thân phận của người dân thường mà lại nghèo (trong đó có mình) trong cái thời đồ đểu này. Ôi, dân thường bao giờ cũng là những người đau khổ, thiệt thòi.

Vụ án “lật đổ” hay bản án chế độ ?

Nguyễn Ngọc Giao

Đại sứ Anh tại Việt Nam, ông David Kent, có lý khi ông cho rằng bản án đối với các ông Trần Đình Duy Thức (16 năm tù), Nguyễn Tiến Trung (7 năm), Lê Công Định và Lê Thăng Long (5 năm) tác hại đến “thanh danh của Việt Nam”. Có lý không phải vì ông là đại diện cho một Vương quốc lập hiến, càng không phải vì Vương quốc “Sư tử già nua” ấy là mẫu mực toàn bích của dân quyền, dân chủ và nhân quyền. Người Việt Nam không ai quên rằng, cách đây 65 năm, quân đội Anh cặp bến Sài Gòn với nhiệm vụ giải giới phát xít Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16, đã mang theo dưới hầm tàu sư đoàn của tướng Leclerc để lập lại chế độ thực dân Pháp ở Viêt Nam.

Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2010

Vài suy nghĩ về đạo Khổng (2)

“15 năm trước, ít ai ở Trung Quốc dám nhắc công khai tới các nguyên lý đạo Khổng, ngày nay, người ta nhắc tới lý tưởng của cụ ở khắp nơi. Đặc biệt, quan chức càng thích “tầm chương trích cú” lời cụ. Cụm từ “xã hội hòa hợp” mà chủ tịch Hồ Cẩm Đào tuyên ngôn như một học thuyết sau khi nắm quyền năm 2003 là một ý tưởng nguồn gốc từ Khổng Tử. Cụ Khổng cả đời ước ao xây dựng một “thế giới đại đồng” – nơi mà người người sống với nhau thuận hòa như trong một đại gia đình…”

Nhặt càphê rụng, một phụ nữ bị chó dữ xé xác



THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM


Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 21/1, bà Phạm Thị Ngắn (55 tuổi, trú tại Buôn H’drát, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk) đi mót cà phê rụng tại trang trại càphê của Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Trường Ngọc do ông Phạm Ngọc Thành làm chủ thì bị đàn chó dữ của ông này xông ra cắn chết tại chổ.
Chị Giang Thị Bích Điệp và Nguyễn Thị Thanh Trâm kể lại, 3 người mót cà phê gần nhau thì bất ngờ 1 con chó béc giê dữ tợn xông ra. Chị Điệp và chị Trâm nhanh chân trèo lên cây cao gần đó. Bà Ngắn trèo lên cây càphê, nhưng do vị trí này cách mặt đất quá thấp nên bị con chó nhảy lên cắn vào người kéo rơi xuống đất và tiếp tục vồ lên người bà Ngắn để cắn xé.

VIỆT NAM ĐÓN NĂM MỚI VỚI NHIỀU VẤN ĐỀ LO TOAN



Tài liệu tham khảo đặc biệt

Thứ Năm, ngày 14-1-2010

Tập đoàn sản xuất vũ khí Raytheon của Mỹ vừa tuyên bố họ đã nhận được đơn đặt hàng quân sự trị giá 1,1 tỷ USD từ phía Đài Loan. Theo đó, Mỹ sẽ cung cấp cho Đài Loan các hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot. Câu chuyện về việc Quốc hội Philippin đã thống qua dự luật về chủ quyền biển năm 2009 vừa xong khiến Trung Quốc tức giận thì nay lại đến chuyện Đài Loan, nơi chỉ cách Đại lục một eo biển và người dân hai bên cùng một gốc Hoa thuần chủng, cùng nói tiếng Bắc Kinh (tiểng phổ thông) nay vẫn còn họ hàng anh em đi lại thăm nhau, thế mà hàng năm họ đã đổ ra hàng chục tỷ USD lo tân trang, mua sắm tên lửa, tàu chiến trước những cái mà hòn đảo này cho là mối đe doạ từ phía Đại lục.

Vài suy nghĩ về đạo Khổng (1)

Đạo Khổng vào nước ta theo một con đường duy nhất: theo chân những tên lính xâm lược phương bắc. Đạo Khổng chính xác là công cụ nô dịch tư tưởng của lũ đô hộ phương bắc với dân tộc Việt. Vì tính chất và hành trình nhục nhã đó, dù đã có thời gian trên dưới hai nghìn năm có mặt trên đất này và được sự nâng đỡ của các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ 11, 12, đạo Khổng chưa bao giờ và sẽ không bao giờ được bản địa hóa để trở thành phần máu thịt trong tâm thức của đa số người dân Việt.

Ba ông Bí thư Tỉnh ủy được tuyên dương

TT - Thứ Năm, 21/01/2010, 06:30 (GMT+7)
Đó là các ông: Nguyễn Duy Hưng, bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh; Hồ Xuân Mãn, bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế; Huỳnh Phong Tranh, bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng.
Đây là thông tin được công bố tại cuộc họp báo ngày 20-1 về hội nghị tổng kết việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” năm 2009, triển khai nhiệm vụ năm 2010 và cuộc gặp mặt, giao lưu, biểu dương các điển hình tiên tiến toàn quốc sau ba năm triển khai cuộc vận động.
Danh sách các điển hình còn có hơn 200 cá nhân, tổ chức được tiến cử từ khắp mọi miền và ba cá nhân là người Việt Nam ở nước ngoài.

Thứ Năm, 21 tháng 1, 2010

Chuyện cổ tân biên

Ngày nảy ngày nay có một người chẳng may lâm vào cảnh đứng đường vì gặp phường lừa đảo, tìm đến bạn là một tỷ phú. Họ đều là những người tử tế và là bạn tốt của nhau. Người lỡ vận hỏi vay vốn của bạn để làm lại và hứa chắc: "Ngay khi tôi ngóc đầu lên được tôi sẽ hoàn trả anh liền".
Biết bạn là người trọng chữ tín nhưng tỷ phú vẫn e ngại: "Tôi tin anh, nhưng cái thời đồ đểu này khó lắm. Lỡ mà anh không còn cơ hội thì tôi mất vốn".

Một giai thoại cũ


Một giai thoại cũ

Mưa suốt cả ngày, không có việc để làm (thất nghiệp), lại chẳng biết đi đâu. Buồn. Mang rượu ra lai rai một mình. Vẫn buồn. Có lẽ trên đời không gì vô vị, vô duyên bằng uống rượu một mình. Chán. Nhìn quanh quất. Chợt nhớ một giai thoại cũ về cụ Nguyễn Công Hoan, liên tưởng đến mình, chợt khoái.
Chuyện kể rằng: năm 1974 vợ chồng nhà phê bình văn học - nhà thơ Vũ Ngọc Phan - Hằng Phương được phân một căn hộ ở khu tập thể Văn Chương.

Thứ Tư, 20 tháng 1, 2010

Mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đầy đe dọa

Tác giả: Trần Bình Nam
(Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả).

Hội nghị quốc tế nghiên cứu về Việt Nam (International Conference on Vietnamese Studies) lần thứ ba được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 4 đến 7/12/2008. Giáo sư Carlyle A. Thayer thuộc Viện nghiên cứu quốc phòng Úc châu trình bày tài liệu “Cấu trúc quan hệ Việt – Trung 1991-2008” (The Structure of Vietnam – China Relations, 1991-2008) nói về quan hệ Việt – Trung trong thời gian 17 năm, từ khi hai nước tái thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1991 (12 năm sau trận đánh biên giới 1979) cho đến hôm nay (2008).
Mối quan hệ Việt - Trung trong 17 năm qua thường được trình bày bởi giới chức Việt Nam và Trung quốc như một mối quan hệ thắm thiết anh em, mặc dù bên trong sóng gió không ít do việc Trung quốc muốn chính thức hóa quần đảo Hoàng Sa (Trung quốc chiếm bằng vũ lực năm 1974) thành đất của mình và lấn chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Trung quốc không phải là một siêu cường


Minxei Pei 
… và không thể một sớm một chiều trở thành siêu cường, theo Minxin Pei, tình hình chính trị và kinh tế của nó bất ổn hơn nhiều so với vẻ ngoài.
Khi mà nước Mỹ rõ ràng đang ở trong suy thoái tột cùng với tư cách là siêu cường duy nhất của thế giới, câu hỏi mang tính thời sự là nước nào sẽ là siêu cường mới? Dường như câu trả lời hầu như mọi người đều nhất trí là Trung quốc. Chuẩn bị thay chỗ nước Nhật để trở thành nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới trong năm 2010, Vương quốc Trung tâm nầy có tất cả mọi yếu tố cần thiết về sức mạnh có thể so sánh và về mặt lôgic ngang ngửa với sức mạnh của chú Sam – nền tảng công nghiệp rộng lớn, nhà nước mạnh, quân đội vũ trang hạt nhân, diện tích lãnh thổ cỡ châu lục, vị trí thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và dân số lớn.. Thực tế là cảm nhận cho rằng Trung quốc trở thành siêu cường thứ hai của thế giới tăng mạnh đến nỗi ở phương Tây đã có đề nghị thành lập G2 – Mỹ và Trung quốc – như là một tổ chức hợp tác mới để giải quyết những vấn đề căng thẳng nhất của thế giới.

Trung quốc không phải là một siêu cường


… và không thể một sớm một chiều trở thành siêu cường, theo Minxin Pei, tình hình chính trị và kinh tế của nó bất ổn hơn nhiều so với vẻ ngoài.
Khi mà nước Mỹ rõ ràng đang ở trong suy thoái tột cùng với tư cách là siêu cường duy nhất của thế giới, câu hỏi mang tính thời sự là nước nào sẽ là siêu cường mới? Dường như câu trả lời hầu như mọi người đều nhất trí là Trung quốc. Chuẩn bị thay chỗ nước Nhật để trở thành nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới trong năm 2010, Vương quốc Trung tâm nầy có tất cả mọi yếu tố cần thiết về sức mạnh có thể so sánh và về mặt lôgic ngang ngửa với sức mạnh của chú Sam – nền tảng công nghiệp rộng lớn, nhà nước mạnh, quân đội vũ trang hạt nhân, diện tích lãnh thổ cỡ châu lục, vị trí thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và dân số lớn.. Thực tế là cảm nhận cho rằng Trung quốc trở thành siêu cường thứ hai của thế giới tăng mạnh đến nỗi ở phương Tây đã có đề nghị thành lập G2 – Mỹ và Trung quốc – như là một tổ chức hợp tác mới để giải quyết những vấn đề căng thẳng nhất của thế giới.
Chắc chắn cảm nhận Trung quốc là siêu cường kế tiếp ít nhất một phần dựa trên sự phát triển kỳ diệu của đất nước nầy trong ba thập kỷ qua. Tăng trưởng kinh tế với mức gần hai con số từ năm 1979, Trung quốc đã tự chuyển hóa từ một xã hội cô lập, bần cùng và suy đồi thành một thế lực thương mại tòan cầu tự tin, thịnh vượng. Với GDP 4,4 nghìn tỉ và tổng ngoại thương 2,6 nghìn tỉ đôla trong năm 2008, Trung quốc đã tự mình phát triển vững chắc thành một cỗ máy chính của kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, bất chấp những thành tựu không thế phủ nhận đó, có thể quá sớm để cho rằng Trung quốc sẽ là siêu cường kế tiếp. Chắc chắn là Trung quốc đã là một cường quốc, một tư cách của các nước không chỉ bảo vệ hiệu quả chủ quyền của mình mà còn có ảnh hưởng mạnh mẽ lên các vấn đề kinh tế và an ninh toàn cầu. Nhưng một cường quốc không nhất thiết là siêu cường.
Trong lịch sử thế giới, duy nhất chỉ có một nước – nước Mỹ – thực sự có được tất cả khả năng của một siêu cường: nền kinh tế công nghệ hiện đại, quân đội công nghệ cao, đất nước hội nhập hoàn toàn, quân đội và lợi thế kinh tế vượt trội so với các đối thủ tiềm tàng, khả năng cung cấp hàng hóa và một ý thức hệ lôi cuốn. Ngay cả trong thời hoàng kim của nó, Liên xô cũ, giỏi nhất cũng chỉ là siêu cường về một phương diện – có thể cạnh tranh với Mỹ về quân sự, nhưng thiếu tất cả những phương tiện thiết yếu khác của sức mạnh quốc gia.
Trong khi đó, những thách thức mà Trung quốc phải đối mặt trong quá trình trở thành siêu cường kế tiếp thực sự đáng ngại. Ngay khi sản lượng kinh tế của nó dự kiến vượt 5 nghìn tỉ đôla trong năm 2010, thu nhập bình quân đầu người của Trung quốc vẫn dưới 4000 đôla, bằng khoảng một phần mười so với Mỹ và Nhật. Hơn nửa dân số Trung quốc vẫn sống ở nông thôn, phần lớn không được dùng nước sạch, không được chăm sóc y tế cơ bản hay giáo dục tử tế. Với tốc độ đô thị hóa hàng năm tăng 1 phần trăm phải cần đến ba thập kỷ nữa Trung quốc mới giảm được số lượng nông dân xuống còn một phần tư dân số. Khi nào Trung quốc còn có số nông dân quá lớn, hàng trăm triệu người ở nông thôn với thu nhập thấp vật vờ bên lề hiện đại, nó không thể trở thành một siêu cường thực sự.
Để tin rằng Trung quốc là siêu cường kế tiếp, cũng cần phải giả định là sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Trung quốc sẽ tiếp tục. Đáng tiếc, dựa vào kết quả quá khứ của một nước để dự báo viễn cảnh tương lai của nó là một nhận định đầy rủi ro. Cho dù kết quả tăng trưởng kỳ diệu từ năm 1979, khả năng duy trì mức tăng trưởng như thế không có gì đảm bảo. Thực ra, khả năng tăng trưởng của Trung quốc sẽ chậm lại đáng kể trong hai thập kỷ tới là hiện thực và thậm chí chắc chắn. Nhiều nhân tố cấu trúc thuận lợi, thu nhập dân cư (có từ dân số tương đối trẻ), sự xâm nhập thị trường toàn cầu hầu như không bị hạn chế, tỉ lệ tiết kiệm cao và chi phí môi trường thấp, sẽ dần dần biến mất. Giống như nước Nhật, Trung quốc đang trở thành một xã hội già nua, một phần không nhỏ là do hiệu quả của chính sách một con khắt khe của chính quyền (bắt các gia đình thành thị chỉ được có một con). Tỉ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên sẽ là 17 phần trăm vào năm 2020, và số người già nầy sẽ làm tăng chi phí y tế và hưu trí đồng thời giảm tiết kiệm và đầu tư. Dù qui mô chính xác của việc giảm tiết kiệm và tăng chi phí y tế và hưu trí không rõ ràng, tác động tiêu cực kép của chúng lên tăng trưởng kinh tế sẽ rất lớn.
Một trở ngại khác đối với sự tăng trưởng của Trung quốc trong tương lai nằm ở mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của nước nầy. Là một nước thu nhập trung bình có thị trường nội địa hạn chế, Trung quốc dựa vào xuất khẩu để tăng trưởng. Trong khi chiến lược nầy đã được ứng dụng thành công ở Đông Á và đã phục vụ tốt cho Trung quốc trong hai thập kỷ qua, khả năng tồn tại của nó trong tương lai hiện đang bị nghi ngờ sâu sắc. Là nhà xuất khẩu lớn thứ hai thế giới (Trung quốc dự kiến sẽ vượt qua Đức để trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới trong năm 2010) Trung quốc đang vấp phải sự phản kháng của chủ nghĩa bảo hộ tại nhiều thị trường chính của nó (Mỹ và châu Âu). Đặc biệt, chính sách duy trì đồng tiền định giá thấp để tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của nó đang bị lên án làm tồi tệ thêm sự mất cân đối toàn cầu và làm suy yếu kinh tế của các đối tác thương mại của nó.
Khác với các nước láng giềng Đông Á, sức mạnh thương mại tương đối yếu, qui mô rõ rệt của Trung quốc đồng nghĩa nó có khả năng gây ra khó khăn kinh tế nghiêm trọng cho những đối tác của nó. Trừ phi chính quyền Trung quốc từ bỏ chiến lược vị lợi của nó, không thể tránh khỏi một sự chống đối hàng xuất khẩu Trung quốc trên toàn cầu. Do tăng trưởng xuất khẩu ròng đã làm cho Trung quốc tăng trưởng ít nhất thêm hai phần trăm trong năm năm vừa qua, sự sụt giảm xuất khẩu của Trung quốc trong tương lai đồng nghĩa với một tốc độ tăng trưởng thấp hơn. Đúng ra, Trung quốc có thể bù đắp sự tổn thất nhu cầu bên ngoài bằng cách tăng tiêu dùng trong nước. Nhưng quá trình nầy đòi hỏi chấn chỉnh toàn bộ chiến lược tăng trưởng của Trung quốc, một biện pháp vất vả và khó khăn về mặt chính trị mà chính quyền hiện thời không có khả năng thực hiện.
Một hạn chế thứ ba đối với tăng trưởng tương lai của Trung quốc là sự xuống cấp môi trường. Trong ba thập kỷ qua, Trung quốc đã bỏ mặc môi trường để chạy theo sự phát triển kinh tế tạo ra những hậu quả tai hại. Ngày nay, ô nhiễm không khí và nước giết chết khoảng 750.000 người một năm. Tổng chi phí do ô nhiễm chiếm khoảng 8 phần trăm GDP. Số liệu chính thức cho rằng để làm giảm sự xuống cấp môi trường đòi hỏi một khoản đầu tư bổ sung 1,5 phần trăm GDP hàng năm. Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng nguồn cung cấp nước của Trung quốc và làm trầm trọng thêm hạn hán ở miền bắc. Phương thức tăng trưởng thông thường của doanh nghiệp Trung quốc, dựa vào năng lượng giá rẻ và ô nhiễm miễn phí, sẽ không thể tiếp tục duy trì.
Ngoài viễn cảnh kinh tế không rõ ràng, sự tiến đến tư thế siêu cường của Trung quốc còn bị hạn chế bởi một loạt nhân tố chính trị. Trước hết và trên hết, các nhà lãnh đạo Trung quốc phải tự mình tìm kiếm một tầm nhìn toàn cầu và một sứ mệnh chính trị. Các nước trở thành siêu cường không chỉ vì chúng có được quyền lực cứng. Sự thực thi quyền lực phải được truyền thông bằng những tư tưởng và tầm nhìn có tính thuyết phục phổ quát. Nước Mỹ mãi cho đến khi nó tham gia Thế chiến II vẫn chưa là siêu cường thực sự, cho dù nó có được tất cả yếu tố cần thiết của một siêu cường từ lâu trước vụ Trân Châu Cảng. Thách thức chính trị đối với Trung quốc trong tương lai là liệu nó có tìm thấy tư tưởng và tầm nhìn chính trị dẫn dắt việc sử dụng quyền lực của nó hay không. Hiện tại, Trung quốc thịnh vượng về kinh tế nhưng phá sản về ý thức hệ. Nó không tin vào chủ nghĩa cộng sản lẫn dân chủ. Việc không có tư tưỏng và tầm nhìn thuyết phục đối với thế giới không chỉ loại bỏ nguồn quyền lực mềm của Trung quốc mà còn chịu trách nhiệm về tư duy hướng nội của lãnh đạo Trung quốc, cho đến nay vẫn chỉ kêu gọi suông về việc Trung quốc phải có trách nhiệm quốc tế lớn hơn.
Khác với nước Mỹ, Trung quốc sẽ thấy khả năng thực thi quyền lực ở nước ngoài bị hạn chế to lớn vì thiếu sự hài hoà chính trị trong nước. Đảng Cộng sản Trung quốc sẽ chống lại các nhà tiên tri vốn thường xuyên cường điệu sự kết thúc của nó trong quá khứ. Nhưng sự độc quyền chính trị của đảng không có gì bảo đảm. Trung Quốc nắm giữ quyền lực bằng cả việc đưa đến thành tựu kinh tế thoả đáng và cả đàn áp những người chống đối sự cai trị của nó. Khi xã hội Trung quốc phát triển tiến bộ và tự chủ hơn, đảng sẽ thấy ngày càng khó để bác bỏ quyền tham gia chính trị của tầng lớp trung lưu thành thị. Là chế độ độc đảng, Đảng cộng sản cũng là nạn nhân của tham nhũng nội bộ. Sự kết hợp giữa thách thức chính trị từ tầng lớp trung lưu đang lên và tình trạng nội bộ ngày càng thối nát sẽ làm tăng khả năng thay đổi chế độ trong tương lai, một quá trình đột phá, thậm chí biến động.
Một sự chuyển biến dân chủ tiềm ẩn không chỉ là điều duy nhất mà thiểu số cai trị Trung quốc lo sợ, chủ nghĩa ly khai sắc tộc thậm chí còn đáng sợ hơn. Hầu như Trung quốc không phải là một nhà nước dân tộc, mà là một đế quốc đa dân tộc với những vùng lãnh thổ to lớn (Tây tạng và Tân cương) cư trú bởi những nhóm thiểu số có tư tưởng ly khai. Nguy cơ tan rã nội bộ, trên cả vấn đề Đài loan lâu đời, có nghĩa là Trung quốc sẽ phải dành các nguồn lực quân sự và an ninh khổng lồ để bảo vệ sự thống nhất lãnh thổ của nó. Điểm yếu mang tính kết cấu nầy làm Trung quốc khó có thể thực thi quyền lực ở nước ngoài và dễ bị tổn thương trước các mưu đồ của đối thủ, những nước lợi dụng căng thẳng sắc tộc của Trung quốc để trói tay Bắc Kinh.
Về mặt địa chính trị, các hạn chế quyền lực của Trung quốc cũng nghiêm trọng như thế. Trong khi nước Mỹ có những láng giềng yếu, Trung quốc phải đương đầu với những đối thủ mạnh trong khu vực – Ấn độ, Nhật và Nga. Ngay cả những nước láng giêng tầm cỡ trung bình của Trung quốc như Hàn quốc, Indonesia, và Việt nam cũng không phải là những nước dễ bị bắt nạt. Sự phát triển của Trung quốc đã châm ngòi cho một sự bố trí lại địa chính trị của khu vực nhằm kiểm sóat thamvọng và sự bành trướng của Bắc kinh. Chẳng hạn, Mỹ đã tăng cường mạnh mẽ hợp tác chiến lược với Ấn độ để New Dehli có thể đương đầu với Bắc kinh. Nhật bản cũng tăng viện trợ cho Ấn độ với cùng một mục đích chiến lược đó. Ngay cả Nga, đối tác dễ chịu hiện nay của Trung quốc, vẫn cảnh giác Trung quốc. Moscow đã từ chối bán vũ khí hiện đại nhất và hạn chế cung cấp năng lượng cho Trung quốc. Bất chấp những tuyên bố chống Mỹ của nó, Hàn quốc tiếp tục dựa vào Mỹ để có được thịnh vượng kinh tế và an ninh. Đối với Việt nam và Indonesia, hai nước Đông Nam Á nghi ngờ nhất ý đồ tương lai của Trung quốc, họ thận trọng tiếp cận nước đôi. Trong khi cố gắng không công khai chỉ trích Trung quốc, họ cải thiện mạnh mẽ quan hệ với Mỹ và Nhật, những đối thủ tiềm tàng của Trung quốc trong khu vực.
Một sự phản cân bằng địa chính trị như vậy sẽ khiến cho Trung quốc không có khả năng trở thành bá chủ ở châu Á – một thế lực thống trị tuyệt đối các đối thủ của nó. Theo định nghĩa, một quốc gia không thể là siêu cường toàn cầu nếu nó không phải vừa là bá chủ khu vực, giống như nước Mỹ. Là một cường quốc bị vây quanh bởi các láng giềng hùng mạnh và đầy cảnh giác, Trung quốc phải thường xuyên trông chừng lưng mình trong khi thực thi quyền lực và ảnh hưởng trên sân khấu toàn cấu.
Tư cách như thế – một cường quốc có ảnh hưởng tòan cầu, nhưng không phải là một siêu cường chi phối – là thứ mà không ai nên bác bỏ dễ dàng. Pax Americana là một tai nạn của lịch sử mà một nước khác không thể sao chép. Đối với thế giới, nó không nên bị ám ảnh với nỗi sợ hãi Trung quốc sẽ trở thành một siêu cường khác. Thay vào đó, nó nên học để sống chung với Trung quốc như là một cường quốc.
Vấn đề là: Trung quốc là loại cường quốc gì?
Điều trớ trêu là, trong khi tất cả các nước đều xem tương lai Trung quốc như là một siêu cường đã an bài thì chính lãnh đạo Trung quốc lại hiểu rõ hơn về những hạn chế cố hữu trong sức mạnh của đất nước nầy. Do vậy, Bắc kinh cực kỳ thận trọng thực thi quyền lực mới đạt được, tránh dính líu với bên ngoài, không tán thành sự có mặt quân sự ở nước ngoài, né tránh những nghĩa vụ quốc tế tốn kém và chung sống với trật tự an ninh và kinh tế quốc tế đã được Mỹ thiết lập và chi phối. Dĩ nhiên, Trung quốc canh chừng lợi ích quốc gia của nó, đặc biệt là chủ quyền, một cách đầy cảnh giác. Về vấn đề tòa vẹn lãnh thổ và phúc lợi kinh tế, Trung quốc hiếm khi ngại ngần ra tay. Nhưng nó không đi xa đến chỗ xây dựng đế quốc hải ngoại thông qua tăng cường sức mạnh quân sự của mình.
Như vậy trong một tương lai có thể thấy được, Trung quốc, cao nhất, cũng chỉ là một cường quốc kinh tế do vai trò là một thế lực thương mại lớn nhất thế giới (với nghĩa nầy, cả Đức và Nhật cũng nên được xem là siêu cường kinh tế). Trong lúc đó, ảnh hưởng địa chính trị và kinh tế của nó sẽ tiếp tục bị hạn chế do sự mong manh nội bộ và cạnh tranh bên ngoài.
Trong khi Trung quốc luôn có một vị trí trong sân khấu toàn cầu, nguyện vọng và khả năng thực thi quyền lãnh đạo của nó hầu như sẽ làm thất vọng những ai kỳ vọng Bắc kinh hành xử như một siêu cường. Không phải là Trung quốc không muốn là một siêu cường. Sự thật đơn giản là nó không phải, và sẽ không là một siêu cường,
Minxei Pei là giáo sư của trường Claremont McKenna College. Cuốn sách mới nhất của ông là ‘China: Trapped Transition (2006).’
Người dịch: C.B.L.
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2010

Thứ Ba, 19 tháng 1, 2010

Ngày mất Hoàng Sa


Ngày mất Hoàng Sa


BBC Vietnamese  08:01 GMT - thứ ba, 19 tháng 1, 2010
Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
36 năm trước, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã ra lệnh khai hỏa trước.
Ngày 19/1/1974 sau một cuộc hải chiến ngắn ngủi, hải quân Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa, khi ấy do Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố chủ quyền.
Ông Hồ Văn Kỳ Thoại, cựu Phó Đề đốc hải quân Việt Nam CH, nguyên Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải là một trong các chỉ huy tham dự trận đánh.
Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Vài ngày trước ngày 19/1, chúng tôi chịu trách nhiệm bảo vệ Vùng 1 Duyên hải, kể cả các hải đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Chúng tôi thấy xuất hiện những sinh hoạt bất thường trên đảo. Trong các đảo thuộc chủ quyền VN thì đảo Hoàng Sa (Pattle) có người ở. Trên đảo có đài khí tượng và một đại đội lính đồn trú.
Những đảo kia thuộc quyền kiểm soát của VNCH, và không có quân. Khi thấy xuất hiện một số sinh hoạt khác thường trên đảo, chúng tôi cử người nhái và biệt hải lên thăm dò thì thấy quân nhân lạ và những chiếc tàu đánh cá có võ trang xuất hiện xung quanh.
Chúng tôi cư xử ôn hòa mời họ ra khỏi đảo. Tuy nhiên tàu lạ có hành động khiêu khích. Được sự đồng ý của tổng thống, chúng tôi dùng vũ lực để mời họ ra.
Trận hải chiến xảy ra vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng. Sự thiệt hại của hai bên coi như bằng nhau. Chúng tôi có tất cả 58 sĩ quan và thủy thủ đã bỏ mình trên chiến hạm, kể cả hai người nhái trên đất liền.
Tàu Nhật Tảo của hải quân VNCH
Hộ tống hạm Nhật Tảo đã bị đánh chìm trong trận chiến.
BBC: Là sĩ quan, và đồng thời là người lính tham chiến, cảm nghĩ của ông thời gian đó như thế nào sau khi bị mất đảo?
Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Bây giờ nhìn lại, thấy rõ ràng năm 1973 khi Hoa Kỳ bắt đầu rút khỏi Việt Nam, thì quân lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu đơn độc không có sự hỗ trợ của đồng minh.
Hoa Kỳ vốn là đồng minh trợ giúp nhiều nhất thì đã rút khỏi Việt Nam. Lúc đó miền Nam lại đang vướng vào cuộc chiến với Hà Nội, thành ra chúng tôi không có đủ quân để giữ những hải đảo đó.
Tuy số quân hai bên không khác nhau nhiều nhưng chiến hạm của Trung Quốc tối tân hơn của VNCH. Chúng tôi quyết định rút lui khi cố vấn Hoa Kỳ cho biết 17 chiến hạm của TQ đang trên đường tới khu vực và khả năng sẽ có phi cơ phản lực tới từ đảo Hải Nam.
Hạm đội 7 của Hoa Kỳ ở gần đó đã không trợ giúp, ngay cả khi chúng tôi cầu cứu.
BBC: Hiện nay Việt Nam và Trung Quốc đang vướng vào tranh chấp về biển đảo, trong đó có Trường Sa. Lúc này Việt Nam không nằm trong liên minh quân sự nào, không có hậu thuẫn của một thế lực hay cường quốc nào. Ông có lo sợ trong tương lai sẽ xảy ra các cuộc hải chiến như vậy không, và có khả năng Việt Nam sẽ mất đảo?
Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Theo tôi nghĩ, chuyện đó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, vì Việt Nam là quốc gia nhỏ bé trong vùng. Chuyện liên hệ quá gần gũi với Trung Quốc cũng có mặt dở của nó, đó là TQ hay lấn tới, có những hành động mà VN không nói gì được. Trung Quốc đâu có đụng các quốc gia khác ở vùng này như vậy đâu.
Tôi nghĩ sự đe dọa có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Nếu chính phủ Việt Nam không có thái độ thật mạnh hoặc dứt khoát, chuyện mất đảo vẫn có thể tiếp tục. Không chỉ đảo xa mà còn đến những đảo gần hơn nữa.
BBC: So sánh về tương quan lực lượng giữa hải quân của hai nước, liệu có thể ví một bên là chàng khổng lồ, con bên kia là người tí hon được không, thưa ông?
Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Theo tôi nghĩ chuyện tương quan lực lượng không thể đặt ra được vì hải quân TQ rất mạnh. Họ có rất nhiều tàu chiến, nhất là về phương diện tàu ngầm.
Còn hải quân Việt Nam, tuy có sự cố gắng nhưng không bao giờ có được những chiến hạm để đối phó với hải quân của một cường quốc như TQ. Nếu đụng độ giữa hai hải quân, tôi nghĩ hải quân VN không thể đương đầu nổi.

Hoàng Sa – tường trình 35 năm sau

Đăng ngày: 13:53 19-01-2010
Thư mục: Tổng hợp


Có lẽ đây là bài báo đầu tiên và duy nhất của trong nước từ năm 1975 kể về hành động xâm lăng này – cách hôm nay đúng 36 năm. Một bài báo mà nhắm tới được hai điều hệ trọng nhất nhưng còn gian nan của đất nước: chủ quyền lãnh thổ và hòa hợp dân tộc. Chỉ tiếc là nó không đi được tới cùng, như lời mở đầu và dự định của BBT báo. Hy vọng có ngày nào đó độc giả lại được nghe tiếp câu chuyện này.
Tuổi trẻ  
Thế Anh-Lữ Công Bảy
Hơn 35 năm trước, những người con đất Việt đã nhận lệnh vượt trùng dương ra quần đảo Hoàng Sa canh giữ biển trời Tổ quốc. Họ tự hào ra đi trong tâm thế của người Việt ra canh giữ đảo biển của người Việt! Bây giờ nhắc lại, mắt họ rưng rưng, tim họ nghẹn lại khi Hoàng Sa vẫn còn trong tay nước ngoài.
Quân đồn trú Pháp – Việt chào cờ trên đảo Hoàng Sa
Từ số báo này, Tuổi Trẻ đăng tải hồi ức của những người từng canh giữ biển trời Hoàng Sa 35 năm trước. Thời gian dài trôi qua, nhưng những gì tận mắt họ chứng kiến, những gì họ trực tiếp tham gia không thể phai mờ trong tâm trí.
Kỳ 1: (Hình bên: ông Nguyễn Văn Đức)

Hoàng Sa trong ký ức một đảo trưởng

Cách nay đúng 40 năm, ông Nguyễn Văn Đức đã cùng các cộng sự vượt trùng dương đến với Hoàng Sa. Nhiệm vụ của ông là canh giữ biển trời Tổ quốc với chức vụ là đảo trưởng theo lệnh của Bộ chỉ huy biệt khu Quảng Đà. Lúc đó ông vừa tròn 22 tuổi, là một trong những đảo trưởng trẻ nhất từng làm nhiệm vụ trấn giữ tại quần đảo Hoàng Sa.
1. Mái đầu ông Nguyễn Văn Đức đã điểm muối tiêu của tuổi ngoài 60. Hỏi ngày nào đáng nhớ trong cuộc đời của mình, ông trả lời không chút đắn đo: “Đó là ngày 14-10-1969, tôi nhận được tờ sự vụ lệnh biên chế về trung đội Hoàng Sa ra đảo làm nhiệm vụ dưới chức danh đảo trưởng”.
Buột miệng hỏi ông về những lo lắng trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, ông phản ứng: “Tại sao phải lo lắng? Đó là đất của cha ông mình để lại, là máu mủ thân yêu của Tổ quốc nên chúng tôi ra đi như lẽ bình thường, hiển nhiên. Chẳng có chút gì phải lo sợ khi chúng tôi đi trong tâm thế của một người Việt ra canh giữ đảo biển của người Việt! Khi đó quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, thuộc về người Việt, đó là sự thật lịch sử không thể chối cãi”.
Một ngày cuối tháng 10-1969, ông Đức cùng trung đội Hoàng Sa gồm 34 người và bốn nhân viên khí tượng rời cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) lên đường làm nhiệm vụ. Sau hơn 24 giờ lênh đênh trên biển, Hoàng Sa thân yêu hiện dần lên trước mắt ông.
Ông Đức nhớ lại: “Lúc đầu biển khá êm, nhưng khi rời đất liền được khoảng hơn 100km thì sóng lớn dần. Từ xa Hoàng Sa hiện lên giữa nền xanh của đại dương. Bao bọc quanh Hoàng Sa là những rạn san hô rộng lớn, vì thế chúng tôi không thể cặp tàu vào được mà phải dùng canô để chuyển quân và quân trang vào đảo. Trên đảo có một tòa nhà lớn được xây dựng từ thời Pháp thuộc, cao khoảng 8m, tường dày 2m dành cho đảo trưởng.
Trong phòng làm việc của đảo trưởng có một bức tường ghi tên tất cả những người lính đã ra đây giữ đảo. Và tên của chúng tôi đã được ghi lên đó, đó là niềm vinh dự lớn lao của một người con đất Việt. Xung quanh đảo là những rừng cây, tuy không to lớn nhưng cũng đủ để che chắn nắng gió cho lính đảo. Hình ảnh lần đầu tiên đặt chân lên mảnh đất tuyệt đẹp của Tổ quốc nơi xa đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ y nguyên. Xúc động lắm”.
2. Ông Nguyễn Văn Đức kể: “Nhiệm vụ của chúng tôi là đo đạc, báo cáo về sở chỉ huy ở đất liền những tin tức ở Hoàng Sa mỗi ngày. Anh em khí tượng làm nhiệm vụ quan trắc và báo cáo tình hình thời tiết để phục vụ cho tàu bè lưu thông trong vùng. Trang bị vũ trang lúc ấy không nhiều, chỉ có hai khẩu đại liên 50mm nhưng anh em vẫn kiểm soát được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Tàu bè quốc tế ngang qua đều tôn trọng chủ quyền của chúng ta, và chúng ta cũng sẵn sàng hỗ trợ tàu bè khi gặp bão tố. Những lúc rảnh rỗi chúng tôi thường dùng canô đi qua các đảo lân cận để chơi vì cảnh quan ở đây rất hữu tình. Đảo Cát, đảo Chim, đảo Elbe, đảo Duncan, đảo Drumond… chúng tôi đều đã đặt chân đến”.
Tờ sự vụ lệnh quyết định điều chuẩn úy Nguyễn Văn Đức làm đảo trưởng Hoàng Sa tháng 10-1969 trong đợt thay quân thứ 38 của quân đội chính quyền Sài Gòn tại Hoàng Sa – Ảnh: Thế Anh
Trầm ngâm nhớ lại những ngày tháng gắn bó với mảnh đất xa xôi của Tổ quốc, cựu chuẩn úy Nguyễn Văn Đức kể tiếp: “Khi thủy triều xuống, cả rạn san hô hiện lên tuyệt đẹp như một rừng hoa biển. Mỗi khi nhớ đất liền, anh em lại lấy vài cành san hô bỏ vô chậu, bắt vài con cá nhỏ ngồi ngắm nghía bên tách cà phê đen. Có sống ở đảo mới thấy nhớ đất liền, yêu quê cha đất tổ. Thời tiết ở đây khá ôn hòa nhưng gió mạnh lắm, nhiều khi anh em bị gió đẩy ngã sóng soài. Tuy vất vả, thiếu thốn nhưng anh em thấy vui và hãnh diện khi được trấn giữ biển đảo quê nhà”.
Ông nói có hai di tích ở đảo Hoàng Sa ông không thể nào quên. Đó là cái miếu nhỏ ở góc đảo mà anh em lính đảo vẫn thường ra đó để tìm chút an bình giữa sóng gió.
Ông kể: “Mỗi khi sóng to gió lớn hay thấy lòng bất an, anh em chúng tôi thường tìm đến ngôi miếu. Lạ lắm, chỉ cần ngửi thấy mùi nhang khói là cảm giác ở xa đất liền như được gần lại. Hơn nữa, mùi nhang khói như gợi lên những tiềm thức về quê cha đất tổ, nhớ về nguồn cội. Đó là những điều cần thiết để những người con đất Việt như chúng tôi yên lòng nơi đầu sóng ngọn gió giữ gìn biển đảo của cha ông để lại. Cạnh đó là một nghĩa trang có hơn 30 ngôi mộ là hài cốt của những chiến sĩ người Việt ngã xuống vì bệnh tật nơi đảo xa, là nắm xương của những người con Việt đã nằm xuống sau những lần đụng độ với âm mưu xâm lược của ngoại bang.
Ở đó còn có cả hài cốt của những ngư dân từ miền Trung, miền Bắc gặp nạn trên đường mưu sinh. Và cũng có cả những nắm xương của lính nước ngoài bị chúng ta hạ gục khi âm mưu đánh chiếm đảo. Có một điều là chúng tôi không phân biệt địch ta khi họ đã ngã xuống, mỗi ngày rằm hay cuối tháng chúng tôi đều thắp nhang lên những nấm mồ hoang. Có lẽ đó là một nét đặc biệt của người Việt mình, là một hành xử đầy tính nhân văn, “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn” mà mỗi người Việt chúng ta còn lưu giữ được từ dòng máu Lạc Hồng!”.
Bia chủ quyền VN ở Hoàng Sa được dựng vào những năm 1930 (ảnh chụp tại phòng lưu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng)
Ngày 19-1-1974, ngày quân Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa – một phần máu xương của Tổ quốc VN, là ngày ông Đức cảm thấy đau đớn nhất trong cuộc đời mình. Ông xúc động kể lại: “Khi hay tin Hoàng Sa bị quân Trung Quốc tước đoạt bằng vũ lực, tôi đau đớn đến mức nước mắt không thể chảy được, lòng dạ như ai xát muối. Tôi biết ngoài kia những đứa con của đất Việt sẽ phải đổ máu vì quê hương. Tôi đau vì một mảnh đất tuyệt đẹp và giàu có của nước nhà đã bị ngoại bang vô cớ cướp đoạt. Đó là nỗi đau của một người con đất Việt!”.
Là một người từng học và hiểu biết về luật quốc tế, ngay trong ngày Hoàng Sa bị chiếm đó ông đã âm thầm lục tìm lại những tài liệu liên quan, gói ghém cẩn thận nhằm làm bằng chứng chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa. Đó là tờ sự vụ lệnh đã nhàu nát và úa vàng vì thời gian.
35 năm sau, ông Đức quyết định liên hệ với chính quyền và báo Tuổi Trẻ để cung cấp những bằng chứng quý báu đó. Có lẽ những ai quen biết ông đều không mấy khó hiểu về hành động yêu nước của ông khi biết trong ngày 30-4-1975, ông đã từng xuống tàu để rời Việt Nam, nhưng trong một tích tắc của thời khắc lịch sử ông đã nhảy lại lên bờ, bởi ông biết không nơi đâu bằng quê hương.
Ông Đức lần giở lại tờ sự vụ lệnh năm nào rồi nói: “Chừng nào Hoàng Sa vẫn còn trong tay ngoại bang thì niềm vui vẫn chưa thể gọi là trọn vẹn được. Tôi sợ rằng lớp trẻ sẽ quên mất Hoàng Sa, sẽ quên mất một phần máu thịt của Tổ quốc, sẽ quên mất rằng có rất nhiều người con của đất Việt đã ngã xuống vì Hoàng Sa trong ngày đáng nhớ 19-1-1974”. Có lẽ đó không chỉ là điều trăn trở của riêng ông.
Kỳ 2: (Hình bên: ông Lữ Công Bảy)

Thứ Tư, 09/09/2009, 16:05 (GMT+7)

Biển động

Tác giả câu chuyện này là người đã có mặt trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 35 năm trước: ông Lữ Công Bảy – quân nhân trên chiến hạm Trần Khánh Dư HQ-4. Sau ngày giải phóng 1975, ông Bảy vẫn ở lại VN, phục vụ trong lực lượng hải quân quân đội nhân dân VN. Hiện ông là nhân viên bảo vệ của Đài truyền hình VN tại TP.HCM.
Khi tôi ghi lại những dòng hồi ký này, sự việc đã xảy ra 35 năm (1974 – 2009). Đã 35 năm trôi qua, những gì tận mắt tôi đã chứng kiến, những gì tôi đã trực tiếp tham gia trong trận hải chiến với hải quân Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19-1-1974 vẫn không phai mờ trong tâm trí tôi.
Lúc bấy giờ tôi là thượng sĩ giám lộ (giám sát lộ trình – hàng hải) trên khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 (chiến hạm tối tân nhất của hải quân Sài Gòn thời bấy giờ) với chức danh hạ sĩ quan phụ tá trưởng ngành giám lộ, kiêm hạ sĩ quan phụ tá trưởng khối hành quân.
Với chức danh đó, lúc nào (trong nhiệm sở tác chiến hay hải hành) tôi đều phải có mặt thường xuyên trên đài chỉ huy, thường xuyên bên hạm trưởng Vũ Hữu San (trung tá hải quân). Nhiệm vụ của anh em chúng tôi là ghi lại nhật ký tác chiến, nhật ký hàng hải, xác định vị trí của chiến hạm, đồng thời nhận và chuyển những tài liệu bằng đèn và cờ.
Hôm ấy, ngày 16-1-1974, gió mùa đông bắc thổi mạnh trên biển Đông. Biển động mạnh. Chiến hạm chúng tôi đang tuần tiễu vùng biển Quảng Ngãi từ Sa Huỳnh đến cù lao Ré (đảo Lý Sơn). Đây đã là ngày thứ 14 lênh đênh trên biển. Chỉ còn một ngày nữa chiến hạm sẽ được về Đà Nẵng nghỉ bến, anh em thủy thủ đoàn rộn ràng nghĩ đến ngày được vào đất liền.
Chưa kịp dùng cơm trưa thì từ trung tâm truyền tin đưa lên đài chỉ huy một công điện thượng khẩn: lệnh cho tàu về ngay Đà Nẵng. 17 giờ tàu về đến quân cảng Đà Nẵng (cảng Tiên Sa). Hạm trưởng San và đại úy Diên – trưởng khối hành quân, được lệnh lên họp khẩn cấp ở trung tâm hành quân Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải. Từ trung tâm hành quân, hạm trưởng điện về tàu lệnh cho ban ẩm thực lên bờ đi chợ (tiếp tế lương thực).
20 giờ hạm trưởng San về tàu. Lệnh cấm trại 100% được ban ra. Ban cơ khí chuẩn bị bắt ống để nhận dầu và nước ngọt. Đến 21g, hai chiếc xe GMC chở một trung đội với đầy đủ vũ khí đạn dược xuất hiện. Lần đầu tiên trước mắt tôi được chứng kiến một toán quân mặc quân phục lạ lùng. Sau một hồi dọ hỏi tôi mới biết đây là lực lượng biệt hải. Tôi được lệnh từ đại úy Diên chuẩn bị hải đồ đi Hoàng Sa. 23g, tàu khẩn cấp rời cảng Tiên Sa trực chỉ Hoàng Sa. Tôi cảm giác có một chuyện gì lớn lao sắp xảy ra.
Ngày N+1
11g30 ngày 17-1, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đã có mặt tại quần đảo Hoàng Sa. Trước đó ngày 16-1, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 do hải quân trung tá Lê Văn Thự làm hạm trưởng cũng đã có mặt tại Hoàng Sa.
HQ-4 tiến gần đảo Vĩnh Lạc. Còi tác chiến vang lên, tất cả thủy thủ đoàn đã sẵn sàng ở vị trí chiến đấu. 14 giờ, trung đội biệt hải được lệnh rời tàu trên ba xuồng cao su, 20 phút sau trung đội biệt hải đã đổ bộ lên rìa đảo an toàn và nhận lệnh tiến sâu vào đảo lục soát.
Báo cáo từ đoàn quân gửi về: không phát hiện gì ngoài vài nấm mộ hình như mới đắp, không có bia, chỉ có cọc gỗ và bảng gỗ đóng trước đầu mộ ghi bằng chữ Trung Quốc với ngày sinh và ngày chết hàng mấy chục năm về trước.
Các chiến sĩ biệt hải được lệnh đào bới các nấm mộ giả lên, hóa ra chẳng thấy xương cốt gì cả. Đây là những nấm mộ ngụy tạo mà ai đó đã dựng lên để chứng tỏ có người Trung Quốc đã sống và chết trên đảo mà thôi. 16g30, lực lượng biệt hải được lệnh rút về tàu.
Đến buổi chiều, phòng chiến báo theo dõi qua hệ thống rađa tầm xa đã phát hiện hai mục tiêu trên biển đang di chuyển đến quần đảo Hoàng Sa. Từ nóc đài chỉ huy, các bộ phận quan sát bằng ống nhòm đã nhìn thấy hai tàu chiến lạ. Trung tâm chiến báo được lệnh theo dõi và báo cáo thường xuyên mọi hoạt động, hướng đi, khoảng cách của hai tàu trên.
Đêm 17 rạng 18-1 là một đêm cực kỳ căng thẳng. Còi nhiệm sở tác chiến báo động suốt đêm. Phía Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa. Tàu HQ-4 và HQ-16 dùng tín hiệu cảnh cáo: Đây là lãnh hải của Việt Nam. Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay! Phía Trung Quốc đáp trả, cho rằng Hoàng Sa là của họ.
Tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc chặn đường tàu VN trên đường ra Hoàng Sa – Ảnh tư liệu
Ngày N+2
Sáng 18-1, chiến hạm HQ-4 của chúng tôi tiến về đảo Cam Tuyền. Lúc 8g, trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ lên đảo. Sau khi lục soát chỉ phát hiện những nấm mộ mới đắp không hài cốt y như ở đảo Vĩnh Lạc.
Đến 11g, đài khí tượng và quân đồn trú đảo Hoàng Sa báo cáo có hai tàu đánh cá vũ trang mang cờ Trung Quốc xâm nhập và tiến gần đến đảo Hoàng Sa, tàu HQ 4 và HQ 16 được lệnh tiến về đảo Hoàng Sa. Khi tiến đến gần tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc, tàu HQ-4 dùng tín hiệu cảnh cáo và đuổi đi nhưng cả hai tàu Trung Quốc cố tình khiêu khích.
Tàu HQ-4 tiến thẳng đến một tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc. Trên tàu có khoảng 30 thuyền viên mặc đồng phục màu xanh dương đậm. Tàu được trang bị hai thượng liên (một đằng trước mũi và một đằng sau lái tàu), ngoài ra có rất nhiều súng AK 47. Tàu HQ-4 quyết định áp sát mạn tàu đánh cá Trung Quốc để xua đuổi.
Hai bên đánh nhau bằng… võ mồm. Thấy không tác dụng, tàu HQ-4 lùi ra dùng mũi tàu ủi thẳng vào tàu Trung Quốc, mũi tàu HQ-4 và neo mũi vướng vào cửa và hành lang phòng lái làm gãy hành lang và cong cửa phòng lái của tàu Trung Quốc. Trước thái độ cương quyết của hải quân VN, họ vội vàng tháo lui. Chiến hạm HQ-16 cũng quyết liệt xua đuổi tàu đánh cá vũ trang còn lại.
Cũng trong sáng 18-1, tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5 do trung tá hải quân Phạm Trọng Quỳnh làm hạm trưởng được lệnh tăng cường ra Hoàng Sa. Cùng đi trên HQ-5 có đại tá Hà Văn Ngạc, được giao nhiệm vụ chỉ huy trưởng lực lượng bảo vệ Hoàng Sa. Ngoài ra, đi theo tàu có một trung đội người nhái (lực lượng đặc biệt của hải quân).
Lúc 15g30 chiều 18-1, lệnh đại tá Ngạc cho ba chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-16 sắp đội hình hàng dọc tiến thẳng về đảo Duy Mộng. Khoảng 16g, có hai tàu chiến Trung Quốc bắt đầu khiêu khích, cắt đường ngang mũi HQ-4 và HQ-16. Đội hình bị chia cắt không thể tiến lên được vì các tàu rất gần nhau, các khẩu đại bác sẵn sàng nhả đạn nhưng không ai được lệnh nổ súng.
Đêm 18 rạng ngày 19-1, tàu chiến và tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc vẫn tiếp tục khiêu khích, tiến đến gần đảo Hoàng Sa. Chiến hạm HQ-4 phải dùng còi hơi thật to và đèn hồ quang trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu Trung Quốc. Tình hình dịu hơn khi tàu Trung Quốc rút lui về hướng bắc.
Đến nửa đêm, hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 do thiếu tá hải quân Ngụy Văn Thà làm hạm trưởng đã ra chi viện cho lực lượng bảo vệ Hoàng Sa.
——
Tình hình tại biển Đông đột ngột trở nên căng thẳng vào ngày 11-1-1974 khi Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đang được chính quyền Sài Gòn quản lý, là một phần lãnh thổ của họ. Ngay sau tuyên bố nói trên, hải quân Trung Quốc đã mở màn chiến dịch xâm chiếm Hoàng Sa bằng cách tung nhiều chiến hạm và tàu đánh cá vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa.
Trong các ngày kế tiếp, phía Trung Quốc bất ngờ đổ người lên các đảo của Việt Nam. Đến ngày 15-1-1974, quân Trung Quốc đã chiếm đóng các đảo Cam Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money), Quang Hòa (Duncan) và Duy Mộng (Drummond)…
Ngày 12-1-1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền Sài Gòn đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động gây hấn của Trung Quốc, đồng thời Bộ tư lệnh Hải quân Sài Gòn đã đưa bốn chiến hạm ra vùng biển Hoàng Sa để bảo vệ lãnh thổ. Và trận hải chiến Hoàng Sa đã nổ ra ngày 19-1-1974.
B.T.
——-
Cùng bạn đọc
TT – Vì lý do ngoài ý muốn, chúng tôi xin tạm dừng hồ sơ “Hoàng Sa – tường trình 35 năm sau”. Chúng tôi sẽ tiếp tục đề tài này vào thời điểm thích hợp. Chân thành cáo lỗi cùng bạn đọc.
Tuổi Trẻ
Sau khi Tuổi trẻ đăng khúc “cùng bạn đọc” ở trên được 5 ngày, không hiểu vì sao loạt bài lại được tiếp tục.
Kỳ 3:
Ngày N+3
Lúc 6g sáng 19-1-1974, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đã tiến sát đảo Quang Hòa và trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ khẩn cấp lên đảo. Không một tàu chiến nào của Trung Quốc phát hiện được HQ-4 và tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5.
Khi gần đến đảo, bằng ống nhòm và mắt thường từ đài chỉ huy, chúng tôi đã phát hiện doanh trại mới toanh và cột cờ có cờ Trung Quốc (trước đó hơn một tháng, HQ-4 trong một chuyến khảo sát quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam đã không phát hiện gì ngoài chai lọ trôi tấp lên bãi cát). Chúng tôi hiểu rằng quân Trung Quốc đã bí mật chiếm đảo. Hai mươi phút sau, lực lượng biệt hải đổ bộ lên đảo (mặt đông nam). Lực lượng đổ bộ cắm cờ Việt Nam lên bờ cát và hốc đá, rồi khẩn cấp tiến vào bên trong đảo.
Trong khi đó, lực lượng người nhái vẫn còn ngoài xa chưa vào được vì HQ-5 không thể vào sát bờ, gió mùa đông bắc thổi khá mạnh, các xuồng cao su bị sóng gió giật dữ dội không vào bờ được. HQ-5 phải thả tàu cứu hộ xuống để kéo các xuồng cao su vào. Từ đài chỉ huy, bộ phận quan sát chúng tôi đã phát hiện một tàu Trung Quốc đang đổ bộ một đội quân đông đảo lên phía bắc đảo, hàng trăm quân Trung Quốc ồ ạt vào đảo rất nhanh vì xuôi gió.
Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 – một trong bốn tàu tham gia trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 – Ảnh tư liệu
Thế rồi báo cáo bất lợi dồn dập gửi về đài chỉ huy tàu HQ-4. Một số đông quân Trung Quốc nấp sau các tảng đá chĩa thẳng mũi súng vào đội hình biệt hải. Trên mặt biển lúc ấy, chúng tôi thấy tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 và hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đang tiến về rìa tây nam đảo, theo sau là bốn tàu chiến Trung Quốc đang tiến vào đội hình của ta. Tình hình bắt đầu căng thẳng, báo hiệu một trận đụng độ sinh tử không thể nào tránh khỏi. Trong khi đó ở phía bắc đảo, những chiếc tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc tiếp tục cho đổ người ồ ạt lên đảo của ta.
Và họ nổ súng trước. Vào lúc 8g30, một loạt đạn đại liên và cối 82 bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sĩ tử thương và hai bị thương. Nhưng chỉ huy phía Việt Nam không thể ra lệnh cho các tàu nổ súng vì lực lượng người nhái đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm.
Lệnh nổ súng
Lúc đó, sát bên tàu HQ-4 của chúng tôi đã xuất hiện hai tàu chiến Kronstadt của Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen, trang bị đại bác 100 li và nhiều đại bác 37 li. Các họng súng đại bác Trung Quốc đều đang chĩa thẳng vào tàu HQ-4.
* Ngay sau khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ các đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa do VN quản lý, ngày 19-1-1974 và 14-2-1974 chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên cáo về việc Trung Quốc “xâm lăng trắng trợn bằng quân sự” và tái khẳng định về chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa.
* Ngày 20-1-1974, ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn cũng đã gọi điện và gửi thư cho chủ tịch Hội đồng Bảo an và tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đề nghị những biện pháp cần thiết trước tình hình khẩn cấp về việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng sa.
* Trong khi đó, ngày 26-1-1974, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN cũng đã ra tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường “về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của VN.
* Sau ngày miền Nam giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của VN. Và ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam VN đã lên tiếng bác bỏ những thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa – Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền VN, từ trước đến nay đều do người VN quản lý.
B.T.
Các tín hiệu bằng đèn hiệu được liên tục chuyển đến HQ-4. Chúng tôi nhận những tín hiệu từ tàu Trung Quốc và trình cho hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San. Nghe xong một nội dung cực kỳ khiêu khích từ tàu Trung Quốc, hạm trưởng San tức thì đỏ mặt, quát tháo ầm ĩ. Quay sang chúng tôi, ông ra lệnh không nhận tín hiệu từ tàu Trung Quốc nữa.
Vào thời điểm hết sức căng thẳng này, khi trận chiến sắp nổ ra, việc thông tin liên lạc giữa lực lượng bảo vệ Hoàng Sa và Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải thường xuyên bị đứt. Tần số liên lạc bị phá rối, trên hệ thống bộ đàm chỉ nghe toàn tiếng Hoa. Đại tá Hà Văn Ngạc, lúc đó đang ở trên chiến hạm HQ-5, được giao toàn quyền hành động (lệnh khai hỏa đã được truyền đi từ Bộ tư lệnh hải quân vùng 1  duyên hải trước đó. Nhưng một hồi lâu sau, quyết định nổ súng mới được thực hiện sau cuộc điện đàm giữa đại tá Ngạc và tư lệnh hải quân vùng 1 Hồ Văn Kỳ Thoại – B.T.).
Đại tá Ngạc ra lệnh: Tất cả đại bác đều phải hướng lên đảo. Khi nhận lệnh bắn thì tất cả khai hỏa lên đảo, dọn đường lập đầu cầu để biệt hải và người nhái đổ bộ tái chiếm đảo. Đó là lệnh từ soái hạm chỉ huy HQ-5. Nhưng hạm trưởng Vũ Hữu San đã bực bội trước lệnh này. Trước khi chuẩn bị nổ súng, đại tá Hà Văn Ngạc có hỏi ý kiến từng hạm trưởng.
Đến khi hỏi ý kiến HQ-4, hạm trưởng Vũ Hữu San gằn từng tiếng trong bộ đàm: “Trình đại bàng, tôi là quân nhân, tôi chấp hành quân lệnh nhưng hiện nay nước cờ đã bị lộ, không còn yếu tố bất ngờ, muốn đổ bộ lên chiếm đảo trước mắt phải tiêu diệt lực lượng trên biển trước khi tính đến việc đổ quân, hiện nay số tàu địch gấp đôi tàu ta, quân địch đã đổ bộ từ sáng đến giờ đầy trên đảo, ta chỉ có hai trung đội thì làm sao thành công được?”. Rồi hạm trưởng San nói tiếp: “Tôi là quân nhân, tôi chấp nhận hi sinh vì Tổ quốc, nhưng…”.
Ông cúp máy và ra lệnh: “Tất cả khẩu súng nhắm thẳng vào tàu địch!”.
Quyết liệt
Đúng 10g20, bốn chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16 đồng loạt khai hỏa. Như đã chuẩn bị trước, hạm trưởng Vũ Hữu San ra lệnh “bắn”. Chiến hạm di chuyển với tốc độ cực nhanh, khói đen bốc lên ngùn ngụt, thân tàu rung lên bần bật vì trúng đạn, vì tiếng dội của các khẩu đại bác vừa khai hỏa.
Chiến hạm HQ-4 chạy uốn lượn như con rắn, hết sang phải lại sang trái nên đã tránh được loạt đạn đại bác của đối phương. Thế rồi các cột nước bùng lên, đạn rít xung quanh tàu vèo vèo. Một mảnh đạn phạt lủng đài chỉ huy, văng ra trúng chân trung úy Roa đang cố gắng theo dõi tàu Trung Quốc qua màn hình rađa. Thượng sĩ nhất giám lộ Ry trúng mảnh đạn nơi cánh tay trái. Hạ sĩ giám lộ Phấn, xạ thủ đại liên 30 trên nóc đài chỉ huy, bị thương nơi ngực, máu thấm đỏ cả áo. Tiếng la ơi ới của các anh em bị thương vọng lên đài chỉ huy.

Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5 – Ảnh tư liệu
Tuy nhiên, chiến hạm HQ-4 vẫn vững vàng trong cuộc hải chiến. Đài quan sát trên nóc báo cáo có tàu Trung Quốc đang đuổi theo. Tôi nhìn ra phía sau vừa thấy hai tàu chiến Trung Quốc. Liền lúc đó từ mạn phải HQ-5 cắt đuôi HQ-4 rồi phóng thẳng vào hai tàu đối phương. Những khối cầu lửa từ mũi HQ-5 bắn ra (đại bác 127 li) bay thẳng vào tàu Trung Quốc. Một chiếc trúng đạn bốc cháy, một chiếc quay ngang và sau đó lãnh đủ hàng loạt đạn từ HQ-4.
Nhưng ngay lúc đó, thông tin từ HQ-5 cho biết ụ tháp đại bác 127 li của tàu này đã bị trúng đạn, ba quân nhân tử thương, hai bị thương nặng. HQ-4 vòng lại yểm trợ HQ-5. Không thấy tàu HQ-16 và HQ-10 đâu cả. Liên lạc mãi với hai tàu này vẫn không được.
Thật ra lúc ấy tàu HQ-10 đã bị thương nặng. Tàu này nhỏ, cũ kỹ, các khẩu đại bác xoay trở bằng tay nên bị trúng liền hai quả 100 li từ tàu Trung Quốc. Trong bộ đàm tôi đã nghe tiếng bạn tôi, trung sĩ nhất giám lộ Vương Thương, báo cáo: HQ-10 đã bị trúng đạn, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử thương, hạm phó Thành Trí trọng thương ngay bụng. Hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ trên đài chỉ huy đều bị tử thương và bị thương rất nặng.
HQ-4 và HQ-5 quay đầu về hướng nam. Sau đó một giờ không còn thấy HQ-5 ở đâu. HQ-5 do máy yếu và một máy bị sự cố chưa kịp khắc phục nên “rớt” lại đâu đó. Trên biển HQ-4 trở nên lẻ loi một mình. Đó cũng là lúc hải quân Trung Quốc tung xuống một lực lượng rất mạnh từ đảo Phú Lâm gần đó và từ căn cứ ở đảo Hải Nam. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, hạm trưởng Vũ Hữu San đã vẽ một đường trực chỉ về Đà Nẵng.
Lúc này tôi mới rời được đài chỉ huy. Trên đường xuống nơi nghỉ ngơi, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng sau chiến trận. Hành lang dưới tàu tanh đến ngộp thở: mùi máu, mùi cồn, bông băng… Hơn 130 binh sĩ bám chặt vị trí chiến đấu giờ đều mệt lả, nằm đâu ngủ đó. Họ chỉ cầm hơi bằng mì gói, nước ngọt và lương khô. Các binh sĩ biệt hải kiệt sức nằm rải rác trên hành lang phòng ăn.
Nỗi đau còn lại
Khoảng 16g30, tôi đang trong giấc ngủ sâu vì đã mấy hôm không chợp mắt thì còi tập họp vang lên. Tất cả thủy thủ đoàn tập họp đầy đủ nghe thông báo: “Tất cả chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, tàu được lệnh quay lại Hoàng Sa. Nếu cần sẽ ủi thẳng lên bờ đảo Hoàng Sa, chiến đấu đến cùng để giữ đảo”. Nhìn sau lái tàu, tôi biết tàu đang quay lại và hướng thẳng về Hoàng Sa. Tất cả đều bất động, không ai nói với ai một lời nào trước giờ phút cảm tử này.
Tôi vào phòng hải đồ phía sau đài chỉ huy mệt lả và thiếp đi, đến khi thức dậy trời tối hẳn, trung sĩ nhất giám lộ Khiết cho biết tàu đang quay đầu về Đà Nẵng. Anh nói hạm trưởng San báo cáo thẳng với tư lệnh hải quân là HQ-4 không còn khả năng chiến đấu, lương thực cạn, cơ số đạn không còn đủ để tác chiến, các khẩu đại bác đều có trục trặc… Lệnh từ đất liền: các tàu quay về, hủy bỏ lệnh tấn công tái chiếm Hoàng Sa.
5g30 sáng 20-1 HQ-4 về đến cảng Tiên Sa, 9g tàu HQ-5 tiến vào vịnh Đà Nẵng. Lúc 12g30, tàu HQ-16 bị thương nặng, từ từ tiến vào vịnh với sự trợ giúp của hai tàu lai dắt biển.
Tối hôm đó, 20-1-1974, cũng là đêm 30 tết âm lịch, anh em chúng tôi được dự buổi liên hoan tất niên cuối năm theo truyền thống. Giữa mâm cao cỗ đầy nhưng ai nấy đều buồn bã, không thiết gì đến ăn uống. Mọi người vẫn hết sức lo lắng cho số phận đồng đội đang trôi giạt trên sóng biển giữa ngày tết thế này, lo lắng cho số phận anh em mắc kẹt lại các đảo. Ai cũng hồi tưởng trận hải chiến hôm qua và đau đớn trước một điều: dù đã cố gắng hết sức vẫn không giữ được mảnh đất thiêng liêng mà tổ tiên để lại.
Trận hải chiến Hoàng Sa chỉ kéo dài hơn 30 phút, nhưng nỗi đau ấy vẫn làm quặn thắt trái tim chúng tôi dù 35 năm đã trôi qua.
LỮ CÔNG BẢY
Theo các nhân chứng trên tàu Nhật Tảo HQ-10 còn sống sót, khi hộ tống hạm này sắp chìm, 28 thủy thủ đã được lệnh đào thoát bằng các phao bè. Họ đã trôi giạt trong sóng gió 78 giờ liền, và sáu người đã chết trên biển vì kiệt sức hoặc bị thương quá nặng, trong đó có hạm phó Nguyễn Thành Trí. Mãi đến chiều 22-1 họ mới được tàu dầu của Hãng Shell là Kopionella mang quốc kỳ Hà Lan cứu vớt. Lúc lên tàu, thêm một thủy thủ nữa qua đời vì kiệt sức.
B.T.
—————
Bổ sung của BS:


Danh sách một số trong 74 chiến sĩ (danh sách của GS Nguyễn Văn Canh là 74) đã nằm xuống để bảo vệ Hoàng Sa trong trận hải chiến cách đây đúng 36 năm:




HQ.10 & Tường-Trình
Ủy-Khúc #
TênSố Quân
1   ?HQ.Th/TáNgụy-VănThà63A/700.824HT
2  121BTL/HĐHQ.Đ/ÚyNguyễn-ThànhTrí61A702.714HP
3   ?ThS.1/TPChâuQNT
4  121BTL/HĐTS /QKNguyễn-VănTuấn71A700.206
5  121BTL/HĐTS /GLVươngThương64A700.777
6  121BTL/HĐTS /TPVõ-VănNam71A705.697
7  121BTL/HĐTS /VChPhan-NgọcĐa71A703.001
8  121BTL/HĐThS ĐTTrần-VănThọ71A706.845
9   ?TT ĐTThanh?
10 157BTL/HĐHQ.Tr/ÚyVũ-VănBang66A/702.337
11 157BTL/HĐHQ.Tr/ÚyPhạm-VănĐồng67A/701.990
12 157BTL/HĐHQ.Tr/ÚyHuỳnh-DuyThạch63A/702.639CKT
13 157BTL/HĐHQ.Tr/ÚyNgô-ChíThành68A/702.453
14 157BTL/HĐHQ.Tr/ÚyVũ-ĐìnhHuân69A/703.058
15 157BTL/HĐTHS.1/CKPhan-TânLiêng56A/700.190
16 157BTL/HĐTHS.1/ĐKVõ-ThếKiệt61A/700.579
17 157BTL/HĐTHS. /VCHoàng-Ngọc53A/700.030
18 157BTL/HĐTRS.1/VTPhan-TiếnChung66A/701.539
19 157BTL/HĐTRS. /TPHuỳnh-KimSang70A/702.678
20 157BTL/HĐTRS. /TXLê-AnhDũng70A/700.820
21 157BTL/HĐTRS. /ĐKLai-ViếtLuận69A/700.599
22 157BTL/HĐTRS. /VCNgô-TấnSơn71A/705.471
23 157BTL/HĐTRS. /GLNgô-VănƠn69A/701.695
24 157BTL/HĐTRS. /TPNguyễn-ThànhTrong72A/700.861
25 157BTL/HĐTRS. /TPNguyễn-VinhXuân70A/703.062
26 157BTL/HĐTRS. /CKPhạm-VănQúy71A/703.502
27 157BTL/HĐTRS. /CKNguyễn-Tấn66A/701.761
28 157BTL/HĐTRS. /CKTrần-VănBa65A/700.365
29 157BTL/HĐTRS. /ĐTNguyễn-QuangXuân70A/703.755
30 157BTL/HĐTRS. /BTTrần-VănĐàm64A/701.108
31 157BTL/HĐHS.1 /VCLê-VănTây68A/700.434
32 157BTL/HĐHS.1 /VCLương-ThànhThu70A/700.494
33 157BTL/HĐHS.1 /TPNguyễn-QuangMén65A/702.384
34 157BTL/HĐHS.1 /VCNgôSáu68A/700.546
35 157BTL/HĐHS.1 /CKĐinh-HoàngMai70A/700.729
36 157BTL/HĐHS.1 /CKTrần-VănMông71A/703.890
37 157BTL/HĐHS.1 /DVTrần-VănĐịnh69A/700.627
38 157BTL/HĐHS /VCTrương-HồngĐào71A/704.001
39 157BTL/HĐHS /VCHuỳnh-CôngTrứ71A/701.671
40 157BTL/HĐHS /GLNguyễn-XuânCường71A/700.550
41 157BTL/HĐHS /GLNguyễn-VănHoàng72A/702.678
42 157BTL/HĐHS /TPPhan-VănHùng71A/706.091
43 157BTL/HĐHS /TPNguyễn-VănThân71A/702.606
44 157BTL/HĐHS /TPNguyễn-VănLợi62A/700.162
45 157BTL/HĐHS /CKTrần-VănBây68A/701.244
46 157BTL/HĐHS /CKNguyễn-VănĐông71A/703.792
Tổ Quốc Việt Nam đời đời ghi nhớ công lao của các Anh!