Giai cấp mới

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

Bữa tiệc của Từ Hy

Năm 1900, Từ Hi dùng “quyền phỉ” Nghĩa Hòa Đoàn, một giáo phái với tôn chỉ “Phù Thanh diệt ngoại xâm” (mẹ cái dân Hán này khéo thật, Mãn Thanh đối với Hán tộc lại chẳng phải ngoại xâm?”) để diệt người da trắng, do đó mà liên quân tám nước vào đánh phá Bắc Kinh. Chính vì sự tấn công này mà triều đình nhà Thanh phải ký hòa ước Tân Sửu nhục nhã với liệt cường năm 1901.
Tháng 6 năm 1900, được sự cho phép của Từ Hi Thái Hậu, quân Nghĩa Hòa Đoàn tiến vào đóng tại Bắc Kinh. Tại đây, họ thao luyện võ nghệ, rèn đúc khí giới, thiêu hủy nhà thờ Thiên chúa giáo, leo lẻo mồm “Diệt dương, phản đế”.
Ngày 10 tháng 6, liên quân 8 nước Anh, Nga, Nhật, Pháp, Đức, Mỹ, I-ta- li-a và Áo với hơn 2000 (hai nghìn) quân từ Thiên Tân đánh vào Bắc Kinh, đến ngày 14 tháng 8 thì chiếm được Bắc Kinh.
Từ Hy thái hậu cải trang thành nông dân, ngồi xe bò cùng triều đình văn võ bá quan nửa đêm trốn chạy (“Mẹ” này cũng hơi bị tự phụ với nhan sắc của mình, chứ năm đấy “mẹ” đã 65 tuổi, một tay thủy binh Tây dương dù có say bét nhè chắc cũng chẳng thèm xâm phạm cái tiết trinh của “mẹ”. “Mẹ” hà tất phải đêm hôm tất tưởi chạy rơi khăn váy).
Nằm ở Tây An tỵ nạn, Từ Hy không khỏi sụt sùi mỗi khi nhớ lại bữa tiệc bà đã thết đại diện tám nước 16 năm trước.
Năm đấy, tết Nguyên đán Quý Dậu (1974) để tỏ lòng hiếu thuận với “Bát Quốc” đang làm mưa làm gió trên đất của các “Con Trời”, bà đã bỏ ra  374 ngàn lượng vàng và có đến 1750 người phục dịch, để cung phụng sứ thần tám nước.
Để thết đãi 400 quan khách ( 212 vị trong phái đoàn 8 nước và 188 đại thần của triều đình Mãn Thanh), Trung quốc mất một năm ròng chuẩn bị.
Bữa tiệc bắt đầu từ đêm 30 tháng Chạp năm Nhâm Thân đến nửa đêm 07 tháng Giêng năm Quý Dậu (1874)
Đêm 30 Tết, tất cả khách mời tề tựu về Duy An Cung, cùng lúc ấy Từ Hi Thái Hậu dự lễ trừ tịch ở miếu Tôn Long. Sau ba hồi chiêng trống long phụng vang lên là hồi khánh ngọc báo tin Thái Hậu xuất cung. Quan khách đồng loạt đứng dậy hướng về long kiệu có 8 vệ sĩ lực lưỡng khiêng. Thái Hậu  vén màn bước ra chào quan khách. Ba hồi chiêng trống vang lên, thay mặt triều đình và Thái Hậu,  Lý Hồng Chương phát biểu ý kiến về ý nghĩa buổi tiệc này nhằm thắt chặt tình hữu nghị giữa nhà Thanh và các nước phương Tây. Thay mặt tám nước, sứ thần Anh quốc đáp từ. Rồi tiếp theo ba tiếng ngọc khánh báo hiệu đại yến bắt đầu. Quan khách ngồi cách nhau khoảng một mét, sau lưng có hai nô tỳ nam và nữ phục dịch.
Món ăn thứ nhất được dọn lên. Cứ ăn hết một món, nhạc lại tấu lên một bản. Dùng đúng năm món, thực khách được uống một chén nước có tác dụng tiêu thực. Rượu đãi khách là rượu đại bổ.
Thực đơn mỗi ngày 20 món,  trong đó có 7 món đặc biệt của mỗi ngày, tiệc kéo dài 7 hôm phải có 7 món vô cùng đặc, đặc biệt trong tổng số 140 món.

Bảy món kỳ lạ đó là:

+ Cỏ phương chi (Linh chi): Loại cỏ này mọc trên đá ở núi Thái Hàng. Cỏ này chỉ có những năm nhuận mới mọc, mọc một lần trong năm ấy đúng vào ngày trung thu và sống rất ngắn ngày, nếu gặp phải ngọn gió Bắc là khô héo liền. Muốn lấy cỏ, trước đó một ngày phải dắt lên núi một con ngựa bạch đực. Mặt trời vừa mọc, dẫn ngựa tới phiến đá có cỏ, đợi ngựa ăn xong, chém ngựa chết ngay, sau đó mổ bụng lấy dạ dày đem về chế thuốc, phơi khô. Tương truyền cỏ này rất mát, trừ bách bệnh. Trong bữa tiệc đãi khách, cỏ phương chi được nấu với long tu, người ăn vào sảng khoái tinh thần, chẳng thấy mệt mỏi.

+ Chuột bao tử: Chuột đồng bắt về nuôi cho ăn toàn gạo trộn với trứng gà và các vị thuốc bổ, uống nước sâm và lê ép. Mỗi ngày được tắm rửa hai lần bằng nước trầm thơm và dầu hương liệu hảo hạng. Món chuột bao tử lấy từ lứa con, cháu các con chuột trên. Đầu bếp phải khéo tay, bọc chuột bên ngoài một lớp bột bánh bao. Thực khách đưa bánh lên miệng nghe được tiếng kêu của chuột còn sống ở bên trong. Món này bổ tì vị và bổ mắt.

+ Trứng công: Công làm nem là món quý, món trứng chim công lại càng quý hơn nữa vì trứng công rất khó lấy. Muốn đãi khách, cần 100 con khỉ được huấn luyện kỹ để lấy trộm trứng công. Kết quả thu được 500 trứng để đãi khách.

+ Tinh tượng: Nhà bếp chọn lựa những tai yến to, tốt ở biển phương Nam , đem nấu với nhân sâm và đường Cao Ly. Sau đó nhồi bột phấn bỏ vào lò nung chín. Người ta khoét trên lưng các con voi ấy một lỗ nhỏ rồi cho vào bên trong một bong bóng cá đã ngâm thuốc bắc phơi khô. Bên trong bong bóng cá có chứa tinh tượng (khí voi) đem đi hấp. Trong bữa tiệc, thượng khách lấy cây kim vàng chọc thủng rồi cho chất ấy chảy vào chén bạc mà uống. Món này bổ lục phủ ngũ tạng, trị dứt các chứng nhức mỏi.

+ Óc khỉ: ở Sơn Đông có rừng lê Ngọc Căn trị được bệnh cam, thận, nhiệt uất, ho kinh niên. Rừng lê này bị đàn khỉ chén sạch vì vậy mà thịt khỉ ở đây thơm ngon, đại bổ, ăn vào trị được bệnh bán thân bất toại. Tương truyền óc khỉ này bổ hơn cả. Số khỉ bắt đem đãi khách là 80 con, toàn loại choai choai chưa thay lông, cứ năm người ăn một bộ óc khỉ. Tám mươi con khỉ được tẩm bổ hàng ngày. Trước giờ đãi khách, khỉ được đặt vào chiếc lồng nhỏ trông tựa chiếc trống con, có thể mở khép dễ dàng. Trên đầu lồng có chừa trống một lỗ nhỏ để đầu khỉ ló lên được, và chiếc gông đặc biệt giữ chặt khỉ lại. Khi ăn, người phục dịch cầm chiếc chày ngà giáng xuống đầu khỉ, cái đập này đã được luyện tập kỹ đủ cho khỉ chết ngay mà không kịp kêu la. Sau đó rưới nước sâm nóng lên đầu khỉ để cho óc khỉ tái đi. Quan khách dùng chiếc thìa bạc múc óc khỉ ra ăn.

+ Heo sữa Phúc Châu: ở vùng Phúc Châu ( Trung Quốc) có giống heo quý, thịt thơm ngon, chuyên ăn một loại củ mọc ở đồi Châu Tích Xương (củ này giống như củ hoàng tinh). Bữa tiệc đãi khách gần 100 con heo sữa, là giống heo hai tháng của xứ Phúc Châu này. Những con heo đó được đập chết (không chọc tiết, làm lông) thui qua một lượt cho cháy hết lớp lông. Xong mổ bụng, bỏ hết ruột gan rồi ướp các loại thuốc quý trong ba hôm, đem chưng cách thuỷ. Lúc ấy thịt heo vô cùng thơm ngon, bộ xương rất mềm.

+ Sơn dương trùng: Được lệnh của Từ Hi Thái Hậu, các thợ săn Hồ Bắc lặn lội vào rừng sâu núi thẳm bắt được sáu con dê núi đang có chửa tại cánh rừng Thiên Tân. Đàn dê này được chăm sóc cẩn thận, hàng ngày cho ăn toàn cỏ Vân Nam và Quảng Tây chở về. Đây là loại cỏ “đông trùng hạ thảo”, loại cỏ quý, là vị thuốc bổ can thận. Ăn cỏ quý này lại thêm các loại lá cây thuốc bổ khác, sáu con dê núi này ngày càng mập mạp, đẻ ra lứa con cũng mạnh khoẻ, to lớn hơn đồng loại. Dê con này vừa đúng hai tháng tuổi, được chọn 14 con giao cho nhà bếp làm lông, moi ruột. Sau đó chúng được ngâm trong thùng gỗ có chứa nước gừng và rượu quý. Sau hai hôm, dê được vớt ra bỏ vào chậu sứ có chứa sữa dê tươi và nước sâm nhung. Tiếp hai hôm nữa, người ta lấy hoa sen trắng (đã tách nhánh hoa và ghim kim vàng xuyên từ hương sen đến cuống hoa), cắm đầy mình dê. Để vậy, ngâm đến ngày thứ 10 (đúng hôm mồng 7 tiệc tàn), xuất hiện những con trùng trắng muốt đầy trong hoa sen. Đầu bếp nhặt lấy con trùng sơn dương này đem chế biến thành món ăn có tác dụng bổ khoẻ, trị các bệnh lao phổi, tê bại, bán thân bất toại...

Chao ôi, một đất nươc bao la bát ngát, một dân tộc đông đảo lúc nhúc đến ¼ nhân loại đã mất một năm trời ròng rã chuẩn bị, lo lắng. Một khoản tiền khổng lồ (374.000 lạng vàng) tiêu phí. Một nhân lực đông đảo phục dịch (1750 người). Trung Hoa vĩ đại đã cung phụng 8 nước “Tây Di” quá con cung phụng bố, vậy mà nỡ lòng nào chúng cố tình hiếp đất nước Trung Hoa (trong chiến dịch này, hơn 1 triệu người dân Tầu bị giết).
Lũ “Tây Di” này đúng là đồ man rợ, chưa được “Thánh giáo” của Khổng xếnh xáng khai hóa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét