Giai cấp mới

Thứ Ba, 20 tháng 10, 2009

NGUYÊN NHÂN SÂU XA CỦA VỤ BẠO LOẠN TÂN CƯƠNG



Đăng ngày: 21:57 19-12-2009



Thư mục: Tư liệu


TTX Việt Nam
Thứ Ba, ngày 20-10-2009

Ba tháng sau sự kiện bạo động dân tộc lớn nhất tại Tân Cương trong vòng 12 năm qua, hàng chục nghìn binh lính đã được huy động vào các thành phố trong toàn bộ khu vực chiếm tới 1/6 diện tích của Trung Quốc này. Việc vận chuyển lực lượng an ninh quá lớn đã là hủy và hoãn nhiều chuyến bay dân sự.
Tờ “Bưu điện Hoa nam buổi sáng” đã đăng bài viết của tác giả Mark O’Neill phân tích về sự kiện này như sau:

Ngày 26/9 vừa qua, Bắc Kinh đã công bố bản án đầu tiên đối với những phần tử liên quan tới vụ bạo động sắc tộc nổ ra ở thủ phủ Urumqi của Tân Cương vào ngày 5/7, làm 197 người thiệt mạng. Theo bản án, 21 người đã bị kết tội giết người, cướp bóc và phá hoại tài sản của người khác. Trong khi đó, bí thư và chỉ huy trưởng cảnh sát thành phố Urumqi đã bị sa thải, để nhận trách nhiệm về vụ bạo loạn này.
Cuối tháng 7, Bắc Kinh tuyên bố chi 4 tỷ nhân dân tệ (NDT) để giảm nghèo và phát triển kinh tế ở ba khu vực phía nam Tân Cương, nơi mà hầu hết những kẻ tham gia bạo loạn vừa qua sinh sống. Tuy nhiên, nỗ lực đó đã không làm thay đổi gì. Cuộc bạo loạn lớn nhất trong vòng 12 năm qua, kể từ vụ biểu tình phản đối chính quyền nổ ra ở Yi Ninh năm 1997 (gần 100 người thiệt mạng), đã không dẫn tới việc thay đổi chính sách gì hay cũng không có phản hồi gì. Bắc Kinh vẫn để ông Vương Lạc Tuyền duy trì địa vị là Bí thư Tân Cương, người giữ cương vị lãnh đạo địa phương lâu nhất ở Trung Quốc từ trước tới nay. Chủ nhiệm Ủy ban công tác dân tộc Yang Jing cho hay trong các thập kỷ qua, chính sách dân tộc của Trung Quốc đã chứng tỏ là đúng đắn và hiệu quả, vì vậy, Trung Quốc sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách này trong thời gian tới. Tuy nhiên, nhiều người Duy Ngô Nhĩ đã không nhất trí với quan điểm trên, cho rằng vụ bạo loạn vừa qua phản ánh sự bất bình lâu nay của người dân về vấn đề việc làm, giáo dục và tôn giáo, và những vấn đề này có thể gây ra những phản đối tương tự trong tương lai.
Ông Hailaite Niyazi, một trong hai trí thức ôn hòa người Duy Ngô Nhĩ, những người thường đưa các vụ việc liên quan tới dân tộc này ra công luận qua trang mạng tiếng phổ thông, cho rằng có hai sự bất bình chính đằng sau vụ bạo loạn trong tháng 7, một là việc đưa người Duy Ngô Nhĩ về phía Đông để làm việc và thứ hai là việc giáo dục bằng hai thứ tiếng. Nhiều cán bộ Duy Ngô Nhĩ đã phản đối hai việc trên, nhưng hễ ai lên tiếng thì đều bị xử lý. Không phải là trò đùa khi đưa các cô gái Duy Ngô Nhĩ 17-18 tuổi sang nơi khác để tìm việc. Ngoài ra, việc hai người Duy Ngô Nhĩ bị giết hại tại nhà máy sản xuất đồ chơi ở Thiệu Quan (tỉnh Quảng Đông) ngày 26/6 là nguyên nhân trực tiếp kích động vụ bạo loạn trong tháng 7. Theo ông Niyazi, chính sách giáo dục bằng hai ngôn ngữ dẫn tới việc sa thải hàng nghìn giáo viên người dân tộc, do trình độ tiếng phổ thông của họ còn hạn chế, đã làm lung lay sự tin cậy của người dân vào chính sách giáo dục cơ sở.
Theo ông Ilham Tohti, một giáo sư về kinh tế của trường Đại học Dân tộc ở Bắc Kinh, vấn đề then chốt là việc làm. Trong lần trả lời phỏng vấn đài châu Á tự do năm nay, ông đã chỉ trích chính sách khuyến khích người Hán di cư tới Tân Cương. Theo kết quả nghiên cứu của ông Tohti hồi những năm 90 của thế kỷ trước, hơn 1,5 triệu người trong số 20 triệu dân của Tân Cương bị thất nghiệp. Tuy vậy, chỉ trong năm 2008 đã có 1,3 triệu người Hán di cư lên Tân Cương. Ông đặt vấn đề cơ hội việc làm tại Tân Cương là rất nhiều, nhưng tại sao lại không dành cho người Duy Ngô Nhĩ ? Ngày 8/7, chính quyền đã bắt giam ông Tohti tại Bắc Kinh, nhưng ngày 23/8 đã phải thả ông vì sức ép ở trong và ngoài nước.
Phản ứng của chính phủ đối với những bất bình này được đưa ra khi họ công bố “Sách Trắng” ngày 21/9, một việc nhằm bảo vệ chính sách của chính phủ kể từ khi Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) tiến vào Tân Cương năm 1949. Theo cuốn “Sách Trắng” này, kể từ năm 1949, chính phủ đã đầu tư 386 tỷ NDT vào Tân Cương. Năm ngoái, thu nhập của người nông dân ở khu vực này đã đạt 3.503 NDT, gấp 28 lần so với mức của năm 1978, trong khi thu nhập của người dân thành thị ở đây đạt khoảng 11.432 NDT, gấp 35 lần theo so sánh trên. Trước năm 1949, Tân Cương không có một mét đường sắt nào và không có một nền nông nghiệp quy mô lớn, trong khi công nghiệp chỉ là sản xuất quy mô nhỏ. Năm 2008, GDP của Tân Cương đã đạt 420,3 tỷ NDT, với mức tăng bình quân hàng năm là 8,3%, kể từ năm 1955. Tân Cương đã có 3.000 km đường sắt và 8 đường cao tốc, với tổng chiều dài 147.000 km. Khu vực này cũng đã tự túc được lương thực, đồng thời là nơi sản xuất nhiều bông và mía đường nhất Trung Quốc. Tân Cương cũng là nơi xuất khẩu cà chua, sản xuất khí đốt, trong khi sản xuất dầu lửa đứng thứ nhì trên toàn quốc.
“Sách Trắng” cho rằng việc đưa lao động Duy Ngô Nhĩ sang miền Đông là một bước đi quan trọng nhằm giải quyết tình trạng thất nghiệp, đặc biệt là khu vực nông thôn và là để tăng thu nhập cũng như trình độ nghề nghiệp cho người dân. Kế hoạch đó bắt đầu từ đầu năm 2000 và lên tới 1,5 triệu người vào năm 2008. Sách Trắng dẫn số liệu của khu Jiashi, nơi đã đưa 19.000 lao động đi sang các vùng đất khác ở Trung Quốc kể từ năm 2006, giúp thu được gần 200 triệu NDT và nâng thu nhập bình quân đầu người ở khu vực này lên hơn 7.000 NDT/năm. Trong cùng thời gian, hàng trăm nghìn người ở các khu vực khác hàng năm đã di cư tới Tân Cương để làm việc trên các cánh đồng bông.
Trong khi chính sách di cư lao động có thể mang lại thêm tiền cho người Duy Ngô Nhĩ, nhưng nó cũng là thách thức đối với các gia đình Hồi giáo bảo thủ, những người luôn muốn giữ con cái họ, nhất là con gái, ở bên cạnh mình và không muốn đưa chúng tới những khu vực cách xa hàng nghìn km. Theo tạp chí Cửa Gió Nam, bất bình về việc làm là nhân tố chính đằng sau vụ bạo loạn 5/7. Các gia đình dân tộc thường rất lớn trong những năm 80 của thế kỷ trước, do không bị hạn chế bởi chính sách sinh đẻ kế hoạch. Trong khi đó, Tân Cương không có nền kinh tế tư nhân như ở Quảng Đông và Chiết Giang, và người Ngô Duy Nhĩ lại bị hạn chế về ngôn ngữ và trình độ kỹ thuật. Hầu hết các gia đình Duy Ngô Nhĩ được phỏng vấn đều kêu ca về tình trạng thiếu việc làm. Tại Trung Quốc đã xuất hiện khoảng cách rất lớn về tỷ lệ thất nghiệp trong các dân tộc khác nhau.
Giáo dục và ngôn ngữ cũng là những nhân tố dẫn tới bất bình. Theo Sách Trắng, trong số 10 triệu người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, 70% là không hiểu chữ Trung Quốc, và đó là khiếm khuyết lớn đối với họ và khu vực này. Từ năm 2004, chính phủ đã đưa chương trình giáo dục hai thứ tiếng vào các trường dân tộc, dẫn tới việc số người dân tộc muốn học tiếng phổ thông tăng mạnh và 24.000 học sinh Duy Ngô Nhĩ đã học trung học trong các trường ở 28 thành phố trên các khu vực khác của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc đẩy mạnh học tiếng phổ thông đã đe dọa việc làm của hàng nghìn giáo viên già, những người mà trình độ tiếng phổ thông không đủ để dạy học sinh. Tiếng phổ thông đã trở thành ngôn ngữ chính trong chính quyền, giáo dục và kinh doanh, đồng thời trở thành ngôn ngữ của sự thành công.
Tôn giáo cũng là nhân tố dẫn tới chia rẽ. Theo Sách Trắng, Tân Cương có tất cả 24.800 Thánh đường Hồi giáo, nhà thờ Thiên chúa giáo và chùa chiền, với 29.000 người theo tôn giáo chuyên nghiệp và hai trường học tôn giáo. Kể từ những năm 80 của thế kỷ trước, hơn 50.000 người đã hành hương tới Mecca, 47 người đã tới Ai Cập, Pakixtan và một số nước Hồi giáo khác để học tập ở trình độ cao hơn. Nhà nước cũng in hơn một triệu cuốn kinh Koran và năm 2008 đã chi 33 triệu NDT để sửa chữa các Thánh đường Hồi giáo quan trọng trong khu vực. Tuy nhiên, các nhà chỉ trích cho rằng chính quyền đã kiểm soát quá chặt chẽ đối với Hồi giáo, như không cho phép quan chức và sinh viên được tới các Thánh đường Hồi giáo, không cho phép tư nhân mở các trường học tôn giáo, hoặc xây dựng các tòa nhà tôn giáo, in ấn tư liệu về tôn giáo và không được phép nhận sự đóng góp của nước ngoài. Mọi việc đều nằm trong sự kiểm soát của nhà nước.

Thứ Hai, 12 tháng 10, 2009

Vụ trao thưởng cho VeDan - lại lỗi "cậu đánh máy"

“Những chuyện lùm xùm gần đây cho thấy “thương hiệu” hay cái danh của các ông quan đại diện cho “phương diện quốc gia” của các bộ ngành ở ta giờ thấy sao mà rẻ rúng quá!”
Nghe mà xót xa, cay đắng. Những “phương diện quốc gia” ấy sao mà họ tự hạ giá mình thê thảm vậy. Quan chức nhà ta gần đây có quá nhiều lời nói, việc làm gây sốc cho dân chúng, họ thể hiện khả năng tư duy thấp  (như Náo chi ủy viên khẳng định “Hoàng Sa-Trường Sa chỉ là bãi đá chim ỉa” mà cả cái chi bộ ấy không thấy ai nhổ vào mặt gã), năng lực làm việc kém cỏi (Ông Quát, các vị “BAN TỔ CHỨC” vụ VEDAN) các vị không có năng lực làm việc, các vị chỉ là những con bù nhìn được đặt nhầm lên ghế, mọi việc các vị ỷ hết vào cấp dưới (mà các vị cũng không có khả năng kiểm soát). Các vị không có tự trọng, ý thức trách nhiệm. Mỗi khi dư luận phát hiện ra việc làm sai của các vị thì lập tức các vị đổ lỗi cho cấp dưới, cho nguyên nhân khách quan, cho đủ kiểu, viện đến cả các lý do cực kỳ ngô nghê thể hiện não trạng thảm hại của các vị, tôi chưa hề được thấy một vị nào dám đứng ra nhận lỗi, nhận trách nhiệm về mình. Sau vụ sập cầu Cần Thơ, nhìn tấm ảnh các vị đại diện cho phía Nhật Bản cúi đầu tạ lỗi mà ô Bộ trưởng của VN cứ hơn hớn, bụng ưỡn, mặt vểnh lên mà tôi thấy nhục (mặc dù tôi chẳng có cái quyền được nhục). Không biết các vị hiểu như thế nào những khái niệm lương tri, liêm sỉ. Do đâu mà có hiện trạng này. Theo tôi, một trong những nguyên nhân là ta thiếu tính chính danh khi định nghĩa các quan chức. Suốt một thời “Dân chủ cộng hòa” sang thời “CHXHCN” ta cứ lem lém gọi các quan chức là “đầy tớ của dân”, gọi như thế là ta đã hiếp dâm từ ngữ. Như vậy là ta đã đánh tráo các khái niệm. Những người nắm tất tần tật các quyền sinh sát trong xã hội, trong đất nước, trong đầu không bao giờ chấp nhận chia xẻ quyền lực (dù nhỏ nhất) cho bất kỳ ai, gọi họ là “đầy tớ” là lăng nhục những “chủ nhân” vớ vẩn như tôi, như những dân đen, con đỏ khác. Tôi đề nghị: từ nay khi nói đến quan chức, chúng ta hãy gọi họ là quan nọ, quan kia, khi họ đã chính danh, thì may ra vì thể diện của các bậc “phụ mẫu chi dân” mà họ giữ gìn tư cách hơn.


Góp ý với các vị trong “BTC” vụ VEDAN:
Cha ông ta đã có câu: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”, “miếng ăn là miếng nhục”...Ai cũng phải ăn để sống, nhưng  cứ thấy có ăn là cắm đầu ăn, ăn không thèm biết đến hậu quả thì không phải là người.

Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2009

Con Cừu Đen

Italo Calvino

Con Cừu Đen
Ở một xứ nọ, mọi người đều là kẻ trộm.
Ban đêm, mọi người đều rời nhà với chùm chìa khoá cùng chiếc đèn lồng có vải che, và đến nhà một người láng giềng để ăn trộm. Họ trở về lúc rạng đông, với nhiều của cải, và thấy nhà của chính họ đã bị mất trộm.
Vì thế, mọi người vui vẻ sống với nhau, và chẳng ai thiệt thòi gì, bởi kẻ này ăn trộm của kẻ khác, kẻ khác lại ăn trộm của kẻ khác nữa, và cứ tiếp tục như thế đến khi kẻ cuối cùng ăn trộm của kẻ đầu tiên. Việc mua bán ở xứ ấy tất nhiên là việc người mua và kẻ bán lường gạt nhau. Chính phủ là một tổ chức tội phạm chuyên ăn trộm của nhân dân, và nhân dân chỉ chăm lo ăn trộm của chính phủ. Do đó, cuộc sống rất thoải mái, chẳng có ai giàu và chẳng có ai nghèo.
Một ngày nọ, chẳng biết vì sao một người đàn ông trong sạch lại đến sống ở xứ ấy. Ban đêm, thay vì ra đi với bao tải và chiếc đèn lồng, anh ta ở nhà hút thuốc lá và đọc tiểu thuyết.
Kẻ trộm đến, thấy đèn sáng, nên không vào nhà.
Tình trạng này diễn ra trong một thời gian ngắn, và mọi người buộc lòng phải giải thích cho anh ta hiểu rằng ngay cả nếu anh muốn sống mà không làm việc thì cũng không có lý do gì anh lại ngăn cản những người khác làm việc. Mỗi đêm anh ở nhà nghĩa là ngày hôm sau một gia đình nào đó chẳng có cái gì để ăn.
Người đàn ông trong sạch khó lòng phản đối lý lẽ đó. Ban đêm, anh ta ra đi và sáng hôm sau anh ta về nhà giống như họ, nhưng anh ta không ăn trộm. Anh ta trong sạch, và bạn không thể làm gì khác để thay đổi bản tính ấy. Anh ta đi đến tận cây cầu và đứng nhìn nước trôi bên dưới. Khi về nhà, anh ta thấy mình đã bị mất trộm.
Chưa đến một tuần lễ, người đàn ông trong sạch không còn một xu dính túi, không còn gì để ăn và căn nhà trống rỗng. Nhưng đó chẳng phải là vấn đề, vì đó là lỗi của chính anh ta; không, vấn đề là thái độ của anh ta đã làm mọi sự đảo lộn. Bởi anh ta để những kẻ khác ăn trộm tất cả của cải của anh ta, mà anh ta lại không ăn trộm của ai cả, cho nên luôn luôn có kẻ về nhà vào lúc rạng đông và thấy nhà mình còn nguyên vẹn: đáng lẽ anh ta phải ăn trộm nhà ấy. Rốt cuộc, sau một thời gian ngắn, những kẻ không bị mất trộm thấy mình giàu có hơn người khác và không còn muốn đi ăn trộm. Tệ hại hơn nữa, những kẻ đến nhà của người đàn ông trong sạch để ăn trộm thấy nhà luôn luôn trống rỗng, do đó họ trở thành nghèo đói.
Trong lúc ấy, những kẻ đã trở nên giàu có lại nhiễm cái thói quen của người đàn ông trong sạch là đi đến cây cầu vào mỗi đêm để nhìn nước trôi bên dưới. Điều này làm sự rối loạn càng tăng thêm, bởi nó khiến cho nhiều kẻ khác trở nên giàu có và nhiều kẻ khác trở nên nghèo đói.
Thế rồi, những kẻ giàu có nhận ra rằng nếu đêm nào họ cũng đến cầu ngắm nước chảy thì chẳng mấy chốc họ lại trở nên nghèo. Và họ nghĩ: "Hãy trả lương để những đứa nghèo đi ăn trộm cho mình". Rồi họ viết hợp đồng, quy định mức lương, tính huê hồng theo phần trăm: tất nhiên họ vẫn còn là những kẻ trộm, và họ vẫn muốn lừa đảo kẻ khác. Và điều phải xảy ra là kẻ giàu càng giàu thêm và kẻ nghèo càng nghèo thêm.
Một số kẻ giàu trở nên quá sức giàu đến mức họ thấy không cần ăn trộm hay thuê những kẻ khác ăn trộm cho mình để mình được tiếp tục giàu nữa. Nhưng nếu họ thôi ăn trộm, họ sẽ trở nên nghèo, bởi những kẻ nghèo ăn trộm của họ. Vì thế, họ trả lương để những kẻ nghèo nhất trong đám nghèo canh giữ của cải của họ khỏi bị bọn nghèo lấy trộm, và qua đó họ hình thành lực lượng công an và xây dựng những nhà tù.
Nói tóm lại, chỉ trong vòng vài năm sau khi người đàn ông trong sạch xuất hiện, người ta không còn nói đến chuyện ăn trộm và mất trộm, mà nói đến chuyện kẻ giàu và người nghèo; nhưng họ vẫn còn là những kẻ trộm.
Con người trong sạch duy nhất chính là con người lúc đầu ấy, nhưng anh ta đã chết từ sớm, vì đói.
Hết
Italo Calvino (1923-1985) nhà văn Cuba